Cùng sự lùi xa của thời gian, sẽ là công bằng hơn nếu giờ đây chúng ta dành “một chỗ đứng dưới ánh Mặt Trời” cho những bài thơ xé lòng lâu nay chỉ chép trong sổ tay nhiều người.
Vào thuở mới bắt tay viết lách, phần lớn người cầm bút ở ta đều có làm thơ, sau đó mới bỏ đi sang các nghề khác. Vì những lý do gì mà bỏ? Có thể mỗi người là một trường hợp riêng, ở mỗi người có nguyên cớ riêng. Như với Nghiêm Đa Văn – một người bạn chung của chúng tôi, cũng có làm thơ vào những năm 1965-1970, sau đi viết truyện thiếu nhi, và làm nhiều nghề đa tạp khác – ngay từ trước 1975, một lần tình cờ, tôi nghe Nghiêm Đa Văn trầm ngâm kể:
– Một trong những thằng khiến tao bỏ làm thơ là Lưu Quang Vũ.
Ý Văn muốn nói tài năng ở Vũ có một vẻ gì tự nhiên, mà không sự dụng công nào có được, và ai không có, thì nên từ giã thơ cho sớm.
Về phần mình, tôi có những kỷ niệm yêu thơ Vũ theo một cách khác. Cũng như nhiều người, trong tâm trí tôi, thỉnh thoảng lại vang lên những câu thơ đâu đâu, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, không cần nhớ tên tác giả, không thuộc cả bài, nhưng cứ nhớ và khi gặp hoàn cảnh tương đồng thì lại ngâm ngợi.
Một kỷ niệm tưởng không đâu mà lưu luyến mãi trong lòng:
– “Có lẽ nào có thể quên được nhỉ / Cuộc đời mình còn có cỏ tóc tiên”.
Những lúc run rẩy xúc động:
– “Trời xanh quá, tim tôi hồi hộp quá / Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình”.
Nỗi ước nguyền được hết lòng cho một người con gái:
– “Không làm thơ, anh sẽ làm lá cỏ / Chỉ xanh thôi, cũng mát mắt em nhìn”.
Từ một chi tiết có vẻ nhỏ nhặt :
– “Ngày hạnh phúc có nụ cười mỏi mệt”.
Đến một cái gì giống như là cảm giác chung về cuộc đời này, nó đã làm khổ ta, mà ta không dứt bỏ được:
– “Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi / Về cuộc đời ghê gớm ta yêu”.
Tất cả câu thơ đó là Lưu Quang Vũ, Lưu Quang Vũ của Hương cây và nhất là Lưu Quang Vũ sau Hương cây, Lưu Quang Vũ của những năm bảy mươi hào hùng và cay đắng. Nên đánh giá những bài thơ này của Vũ như thế nào?
Tôi nhớ một câu nói của Chế Lan Viên đại ý: Nếu tất cả văn học chúng ta viết như Nguyễn Tuân thì chắc chắn không được, thậm chí còn phát chán nữa. Nhưng nếu trong toàn bộ nền văn học, không có một Nguyễn Tuân, thì cũng rất thiếu sót.
Cũng tương tự như vậy, báo chí những năm chiến tranh không thể cho in những dòng thơ mang tâm sự cá nhân, điều ấy là đúng, giọng thơ chủ yếu của những năm chiến tranh phải là giọng thơ hùng tráng. Nhưng cùng với sự lùi xa của thời gian, sẽ là công bằng hơn nếu giờ đây chúng ta dành “một chỗ đứng dưới ánh Mặt Trời” cho những bài thơ xé lòng lâu nay chỉ chép trong sổ tay của nhiều người – đại loại như những bài thơ của Vũ.
Nói bản chất của con người là luôn luôn vươn tới sự hoàn thiện, niềm vui, ánh sáng tức cũng có nghĩa con người không bao giờ thoát khỏi lầm lỗi, nỗi buồn, bóng tối, nhất là đôi khi trong những hoàn cảnh đặc biệt, ánh sáng càng rực rỡ, thì bóng tối càng nặng nề và trông thấy ánh sáng trước mắt đấy mà con người vẫn không vươn tới được.
Có lẽ vì rất hiểu điều đó, nên một người như thi hào Đức B. Brecht, trong bài thơ nổi tiếng mang tên Gửi người mai sau đã nói rất hay về sự độ lượng. Sau khi kể lại những nỗi khốn khổ mà thế hệ mình phải gánh chịu, nào nạn đói hoành hành, nào con người cướp giật của nhau để sống, nhiều người lang bạt “thay đổi nước như thay đổi giày” nhất là sau khi kể lại những yếu hèn của thế hệ mình, Brecht viết tiếp:
“Nhưng các anh, khi đã đến cái thời ao ước đó
Khi con người là bạn của con người
Hãy nghĩ đến chúng tôi
Cho độ lượng”.
Ngay từ những năm chiến tranh, sống trong cái tranh tối tranh sáng nửa hậu phương, nửa chiến trường của Hà Nội, đám bạn mới bắt đầu làm văn chương thuở ấy, khi nghĩ về thơ Vũ đã thường tìm chỗ dựa ở bài thơ nói trên của Brecht. Còn như giờ đây khi mà những người 20-25 hôm qua đã sang tuổi 50-60, cái ý tưởng về sự độ lượng càng có sức kêu gọi, như một ám ảnh: Chúng ta vốn chẳng giàu có gì, đừng làm cho chúng ta nghèo thêm đi một lần nữa, ngay trên phương diện tinh thần(*).
(*) Gần đây một số bài thơ nhắc trong bài này đã được in lại trong các tập thơ tuyển của Lưu Quang Vũ.
Theo Zing News