Trong cuốn sách “Cỗ máy tri thức” dung hòa và pha trộn giữa khoa học, triết học, lịch sử này, nhà triết học hàng đầu Michael Strevens sẽ trả lời những câu hỏi đầy thách thức: Vì sao lại mất thời gian nhiều đến như vậy – hai nghìn năm sau khi triết học và toán học ra đời – thì nhân loại mới bắt đầu sử dụng khoa học để học hỏi và nghiên cứu những bí mật vũ trụ? Tính phi lý đã tạo nên khoa học hiện đại như thế nào?
Khoa học hiện đại đã và đang khám phá ra nhiều bí ẩn vĩ đại của tự nhiên, vũ trụ, đồng thời mang lại nhiều thay đổi vô cùng tích cực cho cuộc sống của nhân loại. Tuy nhiên xét trên chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại, có thể dễ dàng nhận thấy, khoa học xuất hiện vô cùng muộn mằn. Cho tới đầu thế kỷ XVII, tia sáng của nó mới bắt đầu le lói xuất hiện.
Tại sao lại mất thời gian nhiều đến như vậy – hai nghìn năm sau khi triết học và toán học ra đời – thì nhân loại mới bắt đầu sử dụng khoa học để học hỏi và nghiên cứu những bí mật của tự nhiên, vũ trụ? Điều gì tạo nên khoa học hiện đại ngày nay, chi phối và thúc đẩy nó phát triển?… Những câu hỏi này đã thôi thúc nhà triết học hàng đầu Micheal Strevens đi tìm kiếm câu trả lời và mang đến cho độc giả những hiểu biết của ông trong cuốn sách “Cỗ máy tri thức – Tính phi lý đã tạo nên khoa học hiện đại như thế nào”.
Micheal Strevens không phải là người đầu tiên tìm hiểu về vấn đề này. Trước ông đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, triết gia quan tâm đến lĩnh vực này, tiêu biểu như Karl Popper, Thomas Kuhn…. Tuy nhiên Strevens đã phân tích kỹ lưỡng và chỉ ra trong phần đầu cuốn sách của ông: những nguyên tắc đã được các triết gia kể trên đưa ra chưa đúng, chưa giải thích được thấu đáo nguyên tắc, phương pháp hoạt động vĩ đại của khoa học. Và ông cho rằng phương pháp chi phối khoa học hiện đại là một điều hoàn toàn mới mẻ: nguyên tắc lý giải sắt.
Ông chỉ ra: Kể từ khi nền khoa học xuất hiện, các nhà khoa học được tự do suy nghĩ về mối liên hệ giữa bằng chứng và lý thuyết. Nhưng một khi đã tham gia vào nghiên cứu khoa học, họ buộc phải khám phá ra bằng chứng có sẵn hoặc tạo ra bằng chứng mới để thảo luận.
Nguyên tắc sắt khuyến khích, định hướng và bắt buộc các nhà khoa học đang cạnh tranh với nhau chỉ được đưa ra các dữ liệu có thể quan sát được. Nhờ vậy, quy tắc này có thể kiềm chế những cảm xúc thâm căn cố đế của nhân loại, dẫn dắt giới nghiên cứu chuyển sự chú ý vào quá trình và chi tiết, từ đó mang đến cho khoa học sức mạnh phi thường trong việc sàng lọc và loại bỏ các ý tưởng sai lầm.
Nguyên tắc sắp biến tranh luận khoa học trở thành một đấu trường mà trong đó, các giả thuyết được bảo vệ và tấn công. Ở cuộc đấu đó, chỉ có một kiểu nước đi được xem là hợp lệ: nước đi thực nghiệm. Như vậy, một giả thuyết sẽ bị phủ chứng nếu không thể lý giải các hiện tượng thực tế, và được bảo vệ nếu ở nhà khoa học có thể chứng minh rằng thiếu sót đó rõ ràng do thiết bị gặp trục trặc, điều kiện không thuận lợi hoặc giả định sai lầm. Chiến thắng không thể giành được bằng những lời hoa mỹ sáo rỗng, bằng nghiên cứu siêu hình, lập luận đạo đức hay bất kỳ lời hay ý đẹp, tư tưởng lớn lao nào khác. Để giành được vòng nguyệt quế, các đấu thủ phải bắt tay vào quan sát thật tỉ mỉ.
Xuyên suốt lịch sử cho đến đầu thế kỷ 17, các nhà nghiên cứu, tư tưởng luôn tin rằng những học thuyết tôn giáo thực sự tác động đến thế giới vật chất lẫn tinh thần và dĩ nhiên cả lĩnh vực sinh vật. Quy định cấm ngặt việc sử dụng tư duy thần học, triết học vào giải thích và nghiên cứu khoa học là điều khiến các nhà nghiên cứu, tư tưởng đầu thế kỷ 17 trở về trước thấy rằng nguyên tắc đó thật dã man, phi lý. Đây cũng chính là lý do khiến khoa học không thể được khai sinh vào trước thời điểm này.
Ngay cả một nhà tư tưởng hiện đại đời đầu như Rene Descartes, sống ở giai đoạn bình minh của cuộc cách mạng khoa học cũng không thể chấp nhận sự phân biệt rạch ròi giữa nghiên cứu thực nghiệm với lí thuyết thần học mà quy tắc sắt đã đặt ra. Quyền năng và sự cai trị của Chúa được đan cài vào triết lý tự nhiên của Descartes theo nhiều cách khác nhau. Theo quan điểm của Descartes, việc nguyên tắc sắt không cho sử dụng lý thuyết hình học vào nghiên cứu về thế giới tự nhiên là rất khó hiểu, đặc biệt khi ta xét đến một dữ liệu cực kỳ quan trọng – sự tồn tại và đặc trưng của Chúa – sự đại trí toàn năng và bác ái của Người. Vì vậy trong các tác phẩm của Descartes cũng như những người đi trước, chúng ta không thể tìm được bất cứ sự ủng hộ nào đối với lệnh cấm độc tài của quy tắc sắt.
Đến những năm 1640, bất chấp nỗ lực hết mình của Bacon và một vài nhà tư tưởng chủ quan cấp tiến khác, khoa học mới miễn cưỡng được phát minh. Đây là nguyên nhân vì sao khoa học xuất hiện rất muộn trong lịch sử loài người.
Tác giả, triết gia Strevens cũng chỉ ra: Ngay cả trong ngày nay, nguyên tắc sách vẫn ẩn chứa nhiều điều phi lý. Ví dụ một hình thức lập luận mà nhiều nhà khoa học đương đại, trong đó có cả Weinberg, đã ca ngợi sức mạnh của nó trong việc khai sáng thế giới tự nhiên: bảo vệ một lý thuyết dựa trên vẻ đẹp của nó.
Quy tắc sắt tuyệt đối không cho sử dụng những lập luận như vậy trên các kênh truyền thông chính thức của khoa học. Vì vậy bất cứ nhà nghiên cứu hiện đại nào tin rằng các đặc trưng thẩm mỹ có thể dẫn dắt chúng ta tìm đến chân lý đều phải chấp nhận rằng Quy tắc sắt đang cố ý bỏ qua một yếu tố có giá trị quan trọng. Trong trường hợp đó phương pháp khoa học của họ đã vi phạm nguyên tắc lập luận dù nó thực sự mang lại hiệu quả.
Tác giả Strevens thậm chí còn dành cả một chương sách để phân tích kỹ hơn cuộc chiến giữa nguyên tắc sách với cái đẹp, và mối quan hệ với tính hợp lý của trận chiến đó.
Chỉ ra những mặt phi lý của nguyên tắc sắt nhưng tác giả Strevens cũng chỉ ra rằng sự phi lý này có tính hệ thống, và chính nó cũng là một điều kiện tiên quyết khiến khoa học hiện đại có được sự phát triển đáng kinh ngạc như hiện nay.
Sự nhất trí về quy trình do nguyên tắc sắt tạo nên đã truyền sức mạnh cho cỗ máy tri thức. Đầu tiên sự nhất trí này đảm bảo tính liên tục. Trong điều kiện đầy đủ nguồn lực và ý chí các nhà khoa học sẽ không bao giờ đi đến tình cảnh căng thẳng tới mức không thể đàm phán được với nhau. Không còn những cuộc đấu tay đôi hay ly hôn trong khoa học, không còn những phân ly diễn ra song song với sự chia rẽ về tôn giáo, chính trị và triết học trong lịch sử, khi các phe đối đầu hoàn toàn tuyệt giao thậm chí còn thù hằn nhau. Sẽ luôn có một việc mà ngay cả những kẻ thù không đội trời chung với nhau vẫn có thể đồng thuận: làm cùng tiếp một thử nghiệm khác.
Lợi ích thứ hai cũng là hệ quả của lợi ích đầu tiên, quy tắc sắt sẽ chuyển hóa tất cả các cảm xúc hy vọng, tức giận, đố kỵ, tham vọng, oán ghét thành một mục tiêu duy nhất: tạo ra bằng chứng thực nghiệm.
Thứ ba, các quy ước căn bản trong cuộc chơi này, những hành động được xem là hợp lệ đều bất di bất dịch đối với mọi thời đại. Điều này mang đến cho người chơi, hay các nhà khoa học, một nền tảng đơn giản mà vững chắc để tiến hành nghiên cứu, một cơ sở trí tuệ và đạo đức ổn định để xây dựng các công trình thực nghiệm vĩ đại, căn cứ theo yêu cầu về tài chính, tình cảm và thể chất của họ.
Với những cách thức trên, một giao thức đơn giản như quy tắc sắt mang lại sự nhất trí trong việc chỉ ra tranh luận dựa trên kiểm định thực nghiệm, kết hợp với tiêu chuẩn cố định nhằm xác định đâu là kiểm định thực nghiệm. Hai yếu tố này mang lại cho khoa học một nền tảng mà không hình thức nghiên cứu nào trước đó làm được, một tập hợp quan sát thực nghiệm mà khi mang ra so sánh đã khiến cho mọi thành tựu của các nhà triết học tự nhiên thời kỳ cổ đại hay thời trung cổ đều trở nên nhỏ bé về tầm vóc, phạm vi, độ tinh vi lẫn độ chính xác.
Strevens cho rằng, ngày nay có lẽ một phần ba các nhà khoa học Mỹ vẫn tin vào Chúa. Tuy nhiên, phần lớn các tín đồ này cũng không nghĩ rằng đức tin tôn giáo này có thể cung cấp thông tin quan trọng cho họ trong nghiên cứu. Họ đồng tình với ý kiến của Stephen Jay Gould rằng: khoa học và tôn giáo là hình thái nghiên cứu hợp lệ trong hai lĩnh vực hoàn toàn khác biệt. Nếu bạn muốn tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống hãy tìm đến tôn giáo. Còn nếu muốn khám phá chuyển động của các hành tinh và nguồn gốc của các loài, tất cả những biệt việc bạn cần làm là quan sát thực tế.
“Cỗ máy tri thức”giúp độc giả nắm bắt được nguồn gốc, phương pháp chân lý trong khoa học, cũng như vai trò và hy vọng khoa học có thể mang lại cho nhân loại. Phong phú với những hình ảnh minh họa thú vị, Cỗ máy tri thức được viết theo phong cách dễ tiếp cận, trình bày các khái niệm đột phá, những tư tưởng tái cấu trúc lại phần lớn những gì chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã biết về nguồn gốc của thế giới hiện đại.
Nhận xét về cuốn sách, tác giả cuốn sách Quantum viết: “Nếu không có những lợi ích của khoa học thì cuộc sống hiện nay của chúng ta không khác gì thời Trung cổ. Khi Michael Strevens bảo vệ sức mạnh và hiệu quả của phương pháp khoa học nhằm phát hiện ra bản chất thực sự của vạn vật và phủ định những người bác bỏ sự tồn tại của chúng, ông đã theo đuổi một nhiệm vụ đầy tham vọng là khám phá cách vận hành thực sự của khoa học. “Cỗ máy tri thức” là cuốn sách hấp dẫn không thể bỏ qua nếu bạn muốn tìm hiểu về những điều đặc biệt trong khoa học.”
Michael Strevens là Giáo sư Triết học của trường Đại học New York. Từ năm 2004, ông giảng dạy và nghiên cứu về bản chất của khoa học, các hệ thống phức tạp, tâm lí học triết học, vai trò của trực giác trong việc khám phá khoa học, bản chất của việc giải thích và sự hiểu biết, cùng nhiều đề tài khác.
Ông sinh ra và lớn lên ở New Zealand, lấy bằng Tiến sĩ Triết học tại Đại học Rutgers và có 25 năm kinh nghiệm giảng dạy ở Đại học bang Iowa và Đại học Standford. Michael Strevens đã được nhận Giải thưởng Guggenheim (được Quỹ tưởng niệm John Simon Guggenheim trao tặng hằng năm, bắt đầu từ năm 1925, cho những người “chứng minh năng lực đặc biệt trong sản xuất hoặc khả năng sáng tạo đặc biệt trong nghệ thuật”) vào năm 2017.