Home Kinh Tế Tài Chính Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm

Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm

0
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Tránh lạm dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm

[ad_1]

Tại báo cáo trên, Uỷ ban Kinh tế nhận định quy định tại Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở một số quy định tại Nghị quyết số 42 đã được kiểm nghiệm trên thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý nhằm xử lý nhanh nợ xấu, khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.

TRÁNH LẠM DỤNG QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM

Tuy nhiên, Uỷ ban Kinh tế cho rằng Nghị quyết số 42 là nghị quyết thí điểm được ban hành trong bối cảnh nợ xấu cao, phức tạp và tập trung trong một thời gian nhất định, vì vậy, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết số 42 cần được đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng, đặt trong bối cảnh các quy định pháp luật hiện nay đã được hoàn thiện rõ ràng, đầy đủ hơn.

Cơ quan thẩm tra đề nghị đánh giá tổng thể, khách quan bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với công tác xử lý nợ xấu, từ đó hoàn thiện các quy định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tránh hành chính hoá quan hệ dân sự, kinh tế, bảo đảm hài hòa, công bằng với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, kinh tế trên nguyên tắc chỉ luật hóa những nội dung phù hợp trong điều kiện bình thường.

Về nợ xấu (Điều 181), Uỷ ban Kinh tế đề nghị rà soát, cân nhắc kỹ lưỡng, phân loại nợ xấu để áp dụng cơ chế xử lý phù hợp, nhất là đối với các khoản nợ xấu được hạch toán trong bảng cân đối kế toán của tổ chức tín dụng nhưng chưa đến mức độ khó thu hồi hoặc cần phải xử lý tài sản bảo đảm hoặc nợ xấu của khoản vay không đúng quy định.

Về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm (Điều 184), Uỷ ban Kinh tế cho biết nhiều ý kiến đề nghị cần thực hiện việc giao tài sản bảo đảm theo trình tự, thủ tục thông thường của pháp luật. Nghị quyết số 42 đưa ra các cơ chế hỗ trợ thu giữ tài sản bảo đảm với sự tham gia của cơ quan công an và Ủy ban nhân dân các cấp nhằm thúc đẩy nhanh hơn xử lý các khoản nợ xấu lớn, tồn đọng là điểm nghẽn của nền kinh tế được xác định theo Nghị quyết số 42. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường và việc áp dụng pháp luật được thực hiện ổn định, lâu dài thì quy định như trên không còn phù hợp.

Theo Uỷ ban Kinh tế, một số ý kiến cho rằng việc quy định thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm là cần thiết để xử lý được khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, nhất là khi xử lý tố tụng qua Tòa án mất nhiều thời gian, từ đó tác động tích cực cho nền kinh tế.

Song, có ý kiến đề nghị cần làm rõ bản chất, mục tiêu, điều kiện và phạm vi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm và vai trò của cơ quan nhà nước tham gia trong việc thu giữ tài sản bảo đảm. Các quy định phải phù hợp với Hiến pháp và các luật có liên quan, tránh lạm dụng và gây tổn hại lợi ích hợp pháp của người đi vay.

Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (Điều 187), quy định như Dự thảo Luật đã có điều chỉnh so với nội dung của Nghị quyết số 42. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trong Uỷ ban Kinh tế cho rằng quy định như Dự thảo Luật chưa rõ nghĩa vụ nộp án phí, thuế đối với trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ hoặc trong trường hợp chủ nợ bị giải thể, phá sản.

Do vậy, Uỷ ban Kinh tế đề nghị bổ sung thêm thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm: (i) việc ưu tiên nộp các khoản án phí và thuế liên quan trực tiếp đến tài sản bảo đảm kể cả trong trường hợp tài sản đó được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự; (ii) trường hợp chủ nợ bị giải thể, phá sản, thứ tự phân chia tài sản thực hiện theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Luật Phá sản.

Bên cạnh đó, có ý kiến trong Uỷ ban Kinh tế cho rằng việc quy định ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu như tại dự thảo Luật vẫn chưa phù hợp với pháp luật về thuế và pháp luật có liên quan.

NĂM KIẾN NGHỊ VỀ CÁC QUY ĐỊNH CAN THIỆP SỚM TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Liên quan đến vấn đề can thiệp sớm tổ chức tín dụng (từ Điều 144 đến Điều 148),  cơ quan thẩm tra đưa ra 5 kiến nghị với cơ quan soạn thảo.

Thứ nhất, rà soát lại toàn bộ các quy định tại Chương về can thiệp sớm theo hướng hạn chế tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc phải có điều kiện rất cụ thể, đặc biệt là các giải pháp hỗ trợ vay tiền từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Hợp tác xã, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tổ chức tín dụng với lãi suất 0% và việc cho vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm.

Cân nhắc không sử dụng nguồn cho vay đặc biệt từ Ngân hàng Hợp tác xã, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và tổ chức tín dụng. Đối với các trường hợp cảnh báo sớm, cần rà soát, luật hóa những trường hợp thực hiện giám sát tăng cường mà đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả trong thực tiễn để thể hiện đúng bản chất của việc “can thiệp sớm”, không chuyển các biện pháp xử lý trong trường hợp kiểm soát đặc biệt thành trường hợp can thiệp sớm.

Thứ hai, tăng trách nhiệm của cổ đông/thành viên góp vốn, người quản lý, giám sát tổ chức tín dụng để xảy ra tình trạng tổ chức tín dụng yếu kém, đồng thời quy định chế tài đủ mạnh mẽ, quyết liệt đối với các đối tượng nêu trên để tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, quy định về xử lý tổn thất, thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động.

Thứ ba, phân định, quy định phù hợp biện pháp xử lý tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt.

Thứ tư, làm rõ các biện pháp áp dụng đối với tổ chức tín dụng và đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo đảm phù hợp.

Thứ năm, làm rõ trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với việc triển khai các phương án. 

Liên quan đến kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng (Điều 160), Uỷ ban Kinh tế đề nghị rà soát lại trường hợp đặt tổ chức tín dụng vào kiểm soát đặc biệt tại điểm b khoản 1 Điều 160; làm rõ quy định tại khoản 3 về biện pháp đặc biệt báo cáo Quốc hội; báo cáo rõ cơ sở bổ sung quy định so với Luật hiện hành thẩm quyền của Hội đồng quản trị tại khoản 9 Điều này.

Về phương án chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt (Điều 165, Điều 166, Điều 169), Uỷ ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo rõ thêm về tình hình xử lý các tổ chức tín dụng mua bắt buộc và đặt vào kiểm soát đặc biệt trong thời gian qua (bao gồm cả việc kiểm soát đặc biệt các quỹ tín dụng nhân dân); làm rõ các nguyên nhân của việc chậm trễ trong quá trình triển khai xử lý các ngân hàng mua bắt buộc và ngân hàng đặt vào kiểm soát đặc biệt; lý do chưa đề xuất những biện pháp mạnh như giải thể, phá sản, dẫn đến quy mô huy động vốn trong cư dân ngày càng lớn, tác động càng nhiều đến an toàn hệ thống, Nhà nước phải can thiệp. Từ đó có cơ sở xem xét sự phù hợp của các giải pháp đưa ra đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

Uỷ ban Kinh tế cho biết có ý kiến đề nghị làm rõ vai trò, trách nhiệm, nhất là trách nhiệm dân sự của người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng khi để tổ chức tín dụng mất thanh khoản phải kiểm soát đặc biệt và từ đó phải chuyển giao bắt buộc hoặc giải thể, phá sản.

[ad_2]