
Trong số những cuốn sách viết về giáo dục, “In defense of a liberal education” của tác giả Fareed Zakaria, được dịch giả Châu Văn Thuận chuyển ngữ sang tiếng Việt với nhan đề “Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng”, để lại cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
Tôi đặc biệt tâm đắc với lời giới thiệu của tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, trong đó có đoạn: “Muốn tinh thần của một dân tộc trở nên mạnh mẽ, hãy dạy khoa học, và cả giáo dục nhân văn. Giáo dục nhân văn tạo nên sự thức tỉnh trong con người, đánh thức cảm xúc làm người, giúp hình thành một thế giới nhân văn bên trong để tạo tầm nhìn xa, mơ ước lớn”.
Gần đây, việc hàng loạt trường đại học ồ ạt bỏ tổ hợp Văn – Sử – Địa (C00) trong xét tuyển lại khiến tôi nhớ tới cuốn sách này. Đây không chỉ là một điều chỉnh về phương thức tuyển sinh mà còn là quyết định mang tính kỹ thuật.
Tôi luôn cho rằng khó có sự kết hợp nào mang bản sắc tư duy và chiều sâu nhân văn như sự kết hợp Văn – Sử – Địa. Đó là một cấu trúc tri thức tổng hợp, kiến tạo nên năng lực tư duy về con người trong thời gian và không gian. Văn giúp ta hiểu người qua ngôn ngữ, cảm xúc. Sử đặt con người vào dòng chảy thời gian, hiểu sự tiếp nối và đứt gãy. Địa định vị con người trong không gian, môi trường và điều kiện sống. Ba môn học này bổ sung cho nhau, tạo nên năng lực quan sát thế giới trong mối quan hệ toàn thể, mà chúng ta thường gọi là mô hình nhân văn tích hợp (integrated humanities).
Trong mọi mô hình giáo dục, cơ chế thi cử luôn là yếu tố chủ yếu định hướng cách học. Với bất kỳ lý do nào, nếu Văn – Sử – Địa không còn tồn tại như một chỉnh thể tri thức (tổ hợp) như cách mà nhiều trường đại học đang loại bỏ, tư duy tích hợp sẽ bị phá vỡ. Điều này dẫn đến nguy cơ học sinh bị thiếu hụt tri thức để hiểu mối liên hệ sâu sắc giữa con người – lịch sử – xã hội.
Zakaria từng cảnh báo: “Mọi sự sao nhãng giáo dục nhân văn sẽ làm xói mòn thêm tinh thần đại học, vì giáo dục đó nhằm dạy cho con người trở thành con người toàn diện, biết suy nghĩ độc lập, phê phán, yêu tự do – những thứ mà nếu thiếu nó, chúng ta sẽ không thể có nền khoa học hôm nay”.
Việc loại bỏ tổ hợp C00 cũng phản ánh một thực tế khác, đó là kỹ thuật hóa thái quá trong giáo dục. Hầu hết các trường viện dẫn lý do chính là để phù hợp với yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phải có ít nhất một trong hai môn Toán hoặc Ngữ văn, đồng thời đảm bảo việc quy đổi điểm tương đương giữa các phương thức xét tuyển.
Quy định này hoàn toàn đúng về mặt kỹ thuật quản lý, giúp chuẩn hóa thang điểm, thuận lợi cho so sánh và tránh chênh lệch giữa các phương thức xét tuyển. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ: một quy định kỹ thuật được đưa ra để giải quyết bài toán quản lý, nhưng hệ quả của nó lại tác động trực tiếp đến nền tảng triết học sâu xa của giáo dục. Khi chuẩn hóa trở thành mục tiêu trung tâm, điều giáo dục cần nhất – là đo đúng năng lực đặc thù của từng lĩnh vực – lại bị mờ đi.
Yêu cầu của Bộ chỉ là một nguyên nhân, khía cạnh khác của vấn đề có thể còn là sự thất thế của các nhóm ngành xã hội trong cơ cấu ngành nghề của thị trường lao động.
Một nghiên cứu theo dõi quá trình gia nhập thị trường lao động của sinh viên tốt nghiệp ở Việt Nam (Vietnamese graduates’ labour market entry and employment: A tracer study) cho biết: 53% người tốt nghiệp có công việc có mức độ phù hợp cao, tức không phải làm việc trái với ngành học. Tỷ lệ này khá cao ở khối Kỹ thuật và Khoa học, với 59%, và ở mức thấp ở khối Khoa học Xã hội, 48%.
Theo báo cáo của OECD (The causes and consequences of field-of-study mismatch: An analysis using PIAAC. Paris: Organisation for Economic Co-operation and Development), những người học ngành nhân văn, nghệ thuật và khoa học xã hội thường có tỷ lệ việc làm thấp hơn và nguy cơ làm công việc trái ngành cao hơn so với nhóm học các ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật.
Thực tế này khiến những tri thức vốn nuôi dưỡng khả năng đọc sâu, viết rõ, lập luận và cảm thông như Văn – Sử – Địa dần bị xem là “không thực dụng”.
Nhiều người ủng hộ xu hướng này, coi đó là sự vận động tất yếu, và lĩnh vực đào tạo cũng vậy – phải lắng nghe nhu cầu của thị trường lao động.
Nhưng ta có cơ sở để lo lắng cho thế hệ trẻ lớn lên trong nền giáo dục thiếu cân bằng.
Thế giới thay đổi nhanh chóng, và chính những kỹ năng “không thực dụng” này sẽ trở nên vô giá. Nhiều nhà lãnh đạo trong thung lũng Silicon – cái nôi của công nghệ và dữ liệu thừa nhận điều này. Họ nhận ra rằng, trong kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo, công việc của kỹ sư không chỉ là viết mã mà còn phải “thông hiểu về thế giới” và “thấu hiểu người dùng”. Một AI giỏi tính toán, nhưng cần người có tư duy nhân văn để đặt ra những câu hỏi như: “Điều này có công bằng không?” hay “Dữ liệu này có phản ánh toàn bộ bối cảnh lịch sử và xã hội không?”.
Steve Jobs từng đúc kết: “Trong DNA của Apple, công nghệ thôi là chưa đủ, mà chính xác phải là công nghệ kết hợp với giáo dục khai phóng, kết hợp với nhân văn, tạo ra những thành quả khiến chúng ta reo vui”. Ngay cả trong môi trường công nghệ khắt khe nhất, yếu tố quyết định sự khác biệt và thành công vẫn là khả năng cảm nhận và tư duy thẩm mỹ được nuôi dưỡng từ khối kiến thức nhân văn.
Khi Văn – Sử – Địa không còn được coi trọng, năng lực hiểu về con người có nguy cơ bị thay thế bởi năng lực xử lý dữ liệu. Chúng ta có thể tạo ra những kỹ sư giỏi, nhưng lại thiếu những con người đủ sâu sắc để hiểu xã hội mà họ đang vận hành.
Đúng như câu nói của nhà giáo dục Ellen Key: “Giáo dục cho bạn kỹ năng, còn giáo dục nhân văn, khai phóng cho bạn một phẩm giá”, một nguồn nhân lực thực sự chất lượng phải bao gồm cả hai yếu tố kỹ năng và phẩm giá đó. Đó cũng là lý do mà các đại học hàng đầu như Harvard hay Stanford, dù bất cứ ngành nào, sinh viên vẫn phải học các môn trong khối General Education, bao gồm lịch sử, văn chương, triết học để hiểu con người, xã hội trước khi hiểu về kỹ thuật hay máy móc.
Thay vì loại bỏ C00, các trường đại học cần dũng cảm thiết kế các tổ hợp mới duy trì sự liên kết của Văn – Sử – Địa, hoặc áp dụng mô hình Giáo dục Đại cương chặt chẽ, buộc sinh viên dù học Kỹ thuật hay Kinh tế cũng phải dành một phần thời gian để học và hiểu về dòng chảy văn hóa – lịch sử – xã hội. Khi giáo dục mất đi khả năng tổ chức những tri thức bản chất như thế, nó không chỉ thu hẹp lựa chọn của học sinh, mà còn thu hẹp tầm nhìn của cả xã hội.
Một hệ thống giáo dục tốt là hệ thống dám nuôi dưỡng những gì “không thể đo lường được” như: trí tưởng tượng, lòng cảm thông và khả năng tự vấn.
Lê Thanh Tùng
Nguồn tin: https://vnexpress.net/van-su-dia-that-the-4991670.html

