
Lâu lắm rồi, tôi mới thấy ông Vũ Thái Sơn gọi điện cho tôi.
Ông là Chủ tịch Hội điều Bình Phước, đồng thời là chủ một doanh nghiệp lớn kinh doanh trong lĩnh vực nông sản. Sau những thăm hỏi ban đầu, ông chia sẻ:
Công ty mình chuyển tiền từ Việt Nam đi Bờ Biển Ngà mua điều nhân của nhà máy ở Bờ Biển Ngà, sau đó đóng thùng với thương hiệu công ty mình và xuất luôn từ Bờ Biển Ngà đi châu Âu. Người mua sẽ thanh toán tiền về cho công ty ở Việt Nam. Nhưng ngân hàng yêu cầu hạt điều công ty mua phải được nhập về Việt Nam, sau đó mới làm thủ tục xuất khẩu đi châu Âu. Làm vậy thì bên mình chết vì cước phí vận tải (nhập về rồi lại xuất khẩu đi) và thời gian vận chuyển quá lâu mới đến tay khách hàng châu Âu…
Chia sẻ của ông Sơn đụng đến một khía cạnh mà tôi đã trăn trở bấy lâu nay.
Trong thương mại quốc tế, thương nhân Việt Nam chủ yếu chỉ biết đến hoạt động xuất – nhập khẩu, tức là “bán cái mình có, mua cái mình cần”. Tuy nhiên, ngoài xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, tạm nhập tái xuất, còn có nhiều hình thức khác. Một trong số đó là chuyển khẩu – hình thức kinh doanh có thể đem lại lợi ích kinh tế lớn.
Chuyển khẩu tức là thương nhân A mua hàng của thương nhân B rồi bán cho thương nhân C và chỉ định giao hàng trực tiếp từ B đến C. Một doanh nghiệp ở Hong Kong (Trung Quốc) có thể đặt mua một lô cà phê của Việt Nam và bán lại chính lô cà phê đó cho một công ty khác ở Hà Lan. Điều khác biệt so với xuất nhập khẩu thông thường là lô cà phê đó không phải nhập khẩu từ Việt Nam sang Hong Kong rồi mới lại từ Hong Kong xuất khẩu đi Hà Lan, mà sẽ được giao thẳng từ cảng Cát Lái của Việt Nam sang cảng Rotterdam của Hà Lan.
Chuyển khẩu là hình thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Ngoài cách giao thẳng, doanh nghiệp có thể gửi hàng vào kho ngoại quan, đợi thời điểm thích hợp mới ký hợp đồng và giao cho người mua. Với cách này, doanh nghiệp không phải nhập về nước mình rồi lại xuất đi, vừa mất thời gian, vừa gây tốn kém.
Đây là hình thức “mua cái người khác có, bán cho người khác cần”, hay là “lấy của người này bán cho người khác”. Thương nhân không cần trực tiếp sản xuất hay đầu tư vào quy trình chế biến, thu mua, nhưng họ vẫn thu lợi từ hoạt động thương mại; trong một số trường hợp còn thu lợi lớn hơn cả những người thực hiện xuất nhập khẩu thông thường.
Trong thương mại nội địa, phương thức trên có thể đã được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, khi triển khai trên bình diện quốc tế, điều này không hề dễ dàng. Để có thể kinh doanh chuyển khẩu, yếu tố quan trọng hàng đầu là sự am hiểu thị trường, uy tín và mối quan hệ rộng khắp với các đối tác mua – bán. Mà đây lại là một điểm yếu của doanh nghiệp Việt.
Trong khi đó, quy định hiện nay không cho phép doanh nghiệp FDI được kinh doanh chuyển khẩu. “Tôi không hiểu tại sao Việt Nam lại không cho phép?”, Richard – đại diện một doanh nghiệp nước ngoài bày tỏ.
Theo ông, nếu muốn bảo hộ doanh nghiệp trong nước thì chính sách này đã nhầm mục tiêu. Việc doanh nghiệp Việt Nam không thể kinh doanh chuyển khẩu không phải do bị doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh, chiếm mất thị phần mà do doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ năng lực thực hiện. Tức là cho phép doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh chuyển đổi không ảnh hưởng gì đến doanh nghiệp Việt Nam, trong khi Nhà nước lại thu được thuế từ doanh thu phát sinh đối với loại hình kinh doanh này.
Tuy vậy, ngay cả khi doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích tham gia loại hình kinh doanh giàu tiềm năng này, rào cản vẫn tồn tại. Dù Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 02/2020 hướng dẫn hoạt động thanh toán, chuyển tiền đối với kinh doanh chuyển khẩu, trên thực tế, việc chuyển tiền ra nước ngoài mà không có hồ sơ chứng minh hàng hóa nhập khẩu vẫn gặp nhiều trở ngại, thậm chí bị ngân hàng từ chối thực hiện.
“Ngành ngân hàng cũng cần tham gia sâu vào tiến trình hội nhập vì chính sách kiểm soát ngoại hối ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động thương mại quốc tế”, ông Sơn kết luận và nói thêm, nếu muốn kiểm soát việc lợi dụng kinh doanh chuyển khẩu để chuyển lậu ngoại tệ ra nước ngoài, Nhà nước có thể quy định một số điều kiện như duy trì ký quỹ, hoặc chỉ được kinh doanh chuyển khẩu đối với hàng hóa mà doanh nghiệp có kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chính vì không được phép, hoặc do pháp luật chưa rõ nên một số doanh nghiệp Việt Nam đã chọn giải pháp thành lập, đăng ký doanh nghiệp ở Singapore để thực hiện kinh doanh chuyển khẩu. Thuế phát sinh trên lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh này được nộp cho Singapore, thay vì nộp cho Việt Nam.
Hoạt động chuyển khẩu cũng có tác động gián tiếp đối với phát triển dịch vụ logistics. Khi Việt Nam có chính sách thông thoáng với hàng hóa chuyển khẩu, và có thêm các cơ sở để gia tăng giá trị cho hàng hóa, ví dụ như các khu thương mại tự do sắp hình thành, doanh nghiệp ở trong nước hoặc doanh nghiệp ở nước ngoài sẽ có động lực để gom hàng, đưa về gửi kho hoặc sơ chế, đóng gói, hoàn thiện hàng hóa tại các kho ngoại quan, khu thương mại tự do của Việt Nam trước khi chuyển đến nước thứ ba.
Để tham gia mạnh mẽ, tận dụng tốt hơn nữa phương thức kinh doanh này, doanh nghiệp Việt không có cách nào khác là phải vươn ra thị trường nước ngoài. Đó không chỉ là việc bán hàng, thiết lập hiện diện ở nước ngoài mà còn là quá trình học hỏi, xây dựng quan hệ, mở rộng kết nối, hòa nhập với thị trường quốc tế để nắm bắt được các xu hướng, dòng chảy hàng hóa, từ đó mới có thể từng bước đặt chân vào lĩnh vực hết sức tiềm năng này.
“Việt Nam đang muốn phát triển các khu thương mại tự do, coi đây là một động lực mới cho tăng trưởng kinh tế dịch vụ. Nếu có chính sách phù hợp để kích thích doanh nghiệp tận dụng, khai thác phương thức kinh doanh chuyển khẩu, các bạn mới có thể thu hút được đầu tư nhanh hơn, nhiều hơn vào các khu thương mại tự do” – đó là lời nhắn nhủ của Richard, như muốn nói thay nhiều doanh nghiệp đang mong mỏi được cởi trói cơ chế để hoạt động kinh doanh thông thoáng, thuận lợi hơn nữa.
Trần Thanh Hải
Nguồn tin: https://vnexpress.net/mua-noi-co-ban-noi-can-4994592.html

