Nếu ai yêu Hà Nội, mở bản đồ ra thì thấy, Hồ Gươm rất gần sông Hồng.
Từ Bờ Hồ chỉ đi qua vài phố là ra đến đê. Lên đê ta thấy dòng sông rộng bao la xa tít tầm mắt. Mờ mờ bên kia sông là làng mạc phía Long Biên. Như vậy ta hiểu ngay, Hồ Gươm sinh ra từ sông Hồng.
Hồ Gươm khi xưa chưa phải là trung tâm của Thăng Long. Trung tâm của đô thị cổ là Hoàng Thành. Thăng Long xưa gồm có thành và thị. Thành Thăng Long gồm hai lớp: La Thành và Hoàng Thành. Còn nơi ở của dân chúng là chợ (thị), còn gọi là Kẻ Chợ, thì bám lấy bến sông. Như thế là xa xưa, Kẻ Chợ là một đô thị giao thương, quay mặt ra sông. Bây giờ ta có thể thấy vết tích đô thị cổ kéo dài từ chợ Đồng Xuân qua các phố Hàng Mắm, Hàng Tre đến Chợ Gạo, bám sát sông Hồng, một thời buôn bán sầm uất.
Do nhà Nguyễn đã dời đô vào Phú Xuân, nên năm 1831 vua Minh Mạng hạ cấp Thăng Long xuống thành tỉnh lỵ, đặt tên mới là Hà Nội – tức vùng đất ở trong sông. Diện tích của tỉnh Hà Nội khi đó bao gồm diện tích sau này là các tỉnh thành Hà Tây, Hà Nam, thành phố Hà Nội.
Năm 1888, vua Đồng Khánh ra chỉ dụ cắt vùng đất là phủ Hoài Đức của tỉnh Hà Nội cho Pháp làm nhượng địa, trên cơ sở đó người Pháp xây dựng thành phố Hà Nội. Bài toán quy hoạch đặt ra lúc này là phát triển thành phố mới như thế nào trên vùng đất đã có sẵn thành cổ và 36 phố phường sầm uất?
Người Pháp đã sai lầm khi phá Điện Kính Thiên, Thành Hà Nội, phá nhiều đình chùa như chùa Báo Ân, chùa Báo Thiên, lấp sông Tô Lịch, làm mất mát rất nhiều di sản. Tuy nhiên, họ có một thành công lớn là quy hoạch và xây dựng một thành phố Hà Nội mới, kết hợp hài hòa kiến trúc bản địa với kiến trúc phương Tây. Họ quyết định để yên khu 36 phố phường đó, không đụng vào, chỉ chỉnh trang cho sạch sẽ hơn. Họ chọn khu vực đồng ruộng và làng mạc phía tây nam Hồ Gươm để xây dựng một thành phố mới theo kiểu châu Âu, với các đại lộ thẳng tắp, có cây xanh và vỉa hè. Đất hai bên được chia lô rộng để xây các biệt thự thấp tầng, có vườn bao quanh.
Hồ Gươm trong quy hoạch của người Pháp chính là gạch nối giữa hai phần này của thành phố, trở thành trung tâm của Hà Nội từ đây. Tất cả thiết chế đầu não của một thành phố được đặt xung quanh hồ. Hồ Gươm trước rất rộng, có nhiều kênh rạch nối thành chuỗi hồ. Khi xây thành phố, người Pháp lấp bớt đi một phần, vẫn còn vết tích mang tên phố Cầu Gỗ; giải tỏa làng mạc ven hồ, xây một đại lộ rộng rãi chạy vòng quanh. Từ mép đường ra đến hồ là phần đất trồng hoa làm công viên, cấm xây dựng. Các tòa hành chính chỉ được nằm ở phía bên kia của con đường. Điều này giữ cho không gian hồ thông thoáng, không bị các khối kiến trúc lấn chiếm.
Nhìn quy hoạch này tôi không khỏi thán phục. Quang cảnh không gian Hồ Gươm từ trên 100 năm trước đến nay vẫn đẹp. Một cái hồ ở ngay trung tâm làm cho thành phố trở nên mềm mại, nên thơ biết bao. Các công trình kiến trúc ven hồ cũng được tôn thêm vẻ đẹp. Tòa thị chính, bưu điện, cửa hàng sang trọng, quán cà phê, tòa báo… làm nên thiết chế của một thành phố châu Âu. Xa hơn nữa, lui vào trong vài dãy phố là các công trình đồ sộ hơn bao gồm nhà băng, nhà hát lớn, khách sạn, phủ thống sứ…
Người Pháp không đặt các công trình to lớn sát mép hồ, vì như vậy sẽ làm cái hồ trông nhỏ bé đi. Các công trình trên đại lộ ven hồ chỉ tối đa ba tầng, chủ yếu là hai và một tầng. Các công trình này tuân theo một quy tắc ước lệ là không cao hơn rặng cây ven hồ, để nhìn tổng thể, Hồ Gươm sẽ luôn là lẵng hoa bốn mùa xanh mát.
Có được một Hồ Gươm xinh đẹp như hôm nay là kết quả công lao gìn giữ của nhiều người Việt và người Pháp yêu văn hóa. Viện Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient, EFEO) được thành lập năm 1900, có nhiều công lao trong việc giữ gìn các di sản văn hóa của Hà Nội. Viện đã đưa ra danh mục di tích lịch sử được Toàn quyền Đông Dương phê duyệt bảo tồn thành bản sắc riêng độc đáo của kiến trúc Hồ Gươm tại Nghị định ngày 24/11/1906. Các học giả của Viện đã đấu tranh giữ lại Ô Quan Chưởng năm 1905, chống kế hoạch lấp một phần Hồ Gươm năm 1925, chống lại kế hoạch di dời đền Bà Kiệu năm 1937…
Việc xây dựng quanh Hồ Gươm từng được quản lý rất chặt. Mãi đến năm 1935 mới có thêm một quán cà phê, là nhà hàng Thủy Tạ nổi tiếng. Theo bản thiết kế của ba kiến trúc sư Võ Đức Diên, Nguyễn Xuân Tùng và Francois Lagisquet, nhà Thủy Tạ được thiết kế theo kiểu Á – Đông, với mái cong và hệ thống cột trụ tròn thả chân xuống mặt hồ rất lãng mạn. Nhà hàng này xây cũng rất khiêm tốn, chỉ có một tầng, tầng hai không có mái mà chỉ là giàn hoa leo. Du khách ngồi uống cà phê trên tầng hai ngắm tháp Rùa xa xa. Từ bên kia hồ phía Hàng Khay nhìn lại thì Thủy Tạ cũng chỉ nhỏ xinh nhưng vẫn đủ che bớt những lộn xộn của khu phố ta phía này. Nhà hàng Thủy Tạ là một điển hình thành công của kiến trúc hài hòa với cảnh quan môi trường.
Nhưng có một thời, kiến trúc đô thị bị coi nhẹ, Hà Nội biến thành cái làng lớn. Hồ Gươm, trái tim của Hà Nội, cũng thành ao làng. Từ khi mới chập chững, tôi đã được ra hồ tập đi. Năm nay tôi ngoài 60. Và tôi thấy quá trình hóa ao làng của Hồ Gươm đã gần hoàn tất. Với tư cách là một người con Hà Nội, tôi thử tính xem quá trình đó diễn ra như thế nào, với sự biến mất dần các di sản kiến trúc quanh Hồ Gươm.
Đầu tiên là Bưu điện Bờ Hồ. Bưu điện cũ rất đẹp, do kiến trúc sư người Pháp Henry Vidieu thiết kế, xây xong năm 1901. Đến năm 1970 thì bị phá đi để xây thành một tòa nhà 5 tầng, kiểu nhà tập thể đang thịnh hành lúc bấy giờ, cao vượt khung cảnh Hồ Gươm. Kiến trúc Hồ Gươm đã bị tổn thương.
Tiếp theo là tòa Đốc lý. Tòa thị chính cũ một tầng với hàng cột tròn trông rất trang nhã. Năm 1985, công trình này bị phá đi để xây trụ sở công – một khối bê tông ốp đá không ăn nhập với kiến trúc có trước xung quanh hồ.
Thứ ba là tòa nhà Hàm cá mập, phía phố Cầu Gỗ, Hàng Đào. Vị trí đất rất đẹp nhưng tòa nhà nằm dài ra, “ngoạm” hết cảnh quan. Khi tòa nhà này hoàn thành, người Hà Nội phản đối dữ dội. Ai cũng hiểu kiến trúc quanh Hồ Gươm là kiến trúc châu Âu tân cổ điển. Các công trình xây sau này phải theo cùng phong cách thì mới hòa hợp. Tòa nhà sau đó bị buộc phải sửa chữa, thu nhỏ lại nhưng vẫn “chết danh” với cái tên Hàm Cá Mập.
Rồi đến không gian đối diện với Thủy Tạ. Trước đó đây là sân thể thao của người dân phố cổ. Ở đây có xà đơn, xà kép, sân bóng rổ. Đến những năm 1990, thành phố định xây khách sạn cao tầng nhưng bị phản đối nên chuyển qua xây trụ sở ngân hàng. Một tòa nhà cao tầng nữa án ngữ Hồ Gươm.
Cuối cùng, với một khách sạn cao tầng gần hoàn thành, Hồ Gươm chính thức bị vây chặt. Tôi sợ ra hồ vào những ngày đẹp trời, vì nhìn góc nào cũng bị những khối bê tông chắn tầm mắt.
Tôi từng đọc được một chia sẻ rất hay của KTS Hoàng Thúc Hào. Ông nói, cũng giống như Lời thề Hippocrates trong ngành Y chúng tôi, người làm kiến trúc cũng cần đạo đức, hay chính là trách nhiệm xã hội với công việc của mình. Làm kiến trúc tức là làm văn hóa, là tạo ra không chỉ một công trình mà còn tạo lập giá trị văn hóa cho mai sau.
Không gian xung quanh Hồ Gươm là hội tụ của những giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc hàng trăm năm qua. Thật mừng vì cuối cùng những giá trị văn hóa của Hà Nội vẫn được nâng niu. Đêm qua khi hay tin thành phố quyết định phá dỡ tòa nhà “Hàm cá mập” kia, tôi xúc động không thể ngủ được.
Tôi tin nhiều người yêu Hà Nội có chung cảm xúc ấy. Cùng với việc di dời một số công trình ven hồ để mở rộng không gian Hồ Gươm, đưa nước sông Hồng vào cứu sông Tô Lịch, cùng nhiều cầu, đường mới mở, Hà Nội sẽ có một diện mạo mới, vừa hiện đại, vừa giữ được hồn cốt xưa, sẽ cất cánh như tên gọi Thăng Long ngày nào.
Quan Thế Dân
Nguồn tin: https://vnexpress.net/ho-guom-chat-hep-4857562.html