
Vốn quan tâm tới tin tức về giáo dục, tôi thường bị quấy rầy bởi quảng cáo của các trường đại học nước ngoài có chữ “international” (quốc tế) trong tên gọi. Rất nhiều trong số đó chỉ là các pháp nhân công ty nhưng tự nhận là đại học (university).
Tên gọi của tổ chức là một nội dung quan trọng trong nhận diện thương hiệu và cao hơn là giá trị thương hiệu hay cam kết với cộng đồng. Đại học là một tổ chức xã hội có ảnh hưởng sâu rộng với quy mô lên tới hàng chục nghìn đối tượng liên quan, có triết lý, tư tưởng về sứ mệnh tồn tại của mình, do vậy tên gọi có “chính danh” thì mới “ngôn thuận” để phát triển.
Hiện nay đang có tranh luận xung quanh dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học mà theo đó Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất các nguyên tắc khắt khe hơn về đặt tên, ví dụ cấm sử dụng các cụm từ như “quốc gia”, “quốc tế”, “Việt Nam”… (kể cả các từ tiếng Anh tương ứng như national, international, state) trong tên gọi nếu không có quyết định cho phép của cấp có thẩm quyền.
Về mặt pháp lý, vấn đề này nằm giữa ranh giới của sự tự do, tự chủ tương đối trong hoạt động của cá nhân, tổ chức, và quyền lực của nhà nước trong việc áp đặt những chuẩn mực nhất định để bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng. Do vậy nghiêng về phía nào hoàn toàn là phương án lựa chọn, không có đúng – sai rõ ràng.
Về mặt thực tiễn, có hai trường phái trong việc quản lý tên gọi.
Một số nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ có những quy định nhằm hạn chế việc các trường nhỏ, tổ chức nhỏ nhưng muốn đặt tên như thể “đại diện cả quốc gia”. Bộ Giáo dục Trung Quốc quy định các trường đại học, cao đẳng và học viện kỹ thuật không được đặt tên có các từ như: “Trung Quốc” (China), “Quốc gia” (National), “Quốc tế” (International). Mục đích là tránh gây hiểu lầm rằng đó là trường công lập trọng điểm quốc gia hoặc có vị thế quốc gia. Tương tự, các trường chỉ được sử dụng tên địa phương (tỉnh, thành phố) nếu do chính quyền địa phương đó thành lập.
Trong khi đó, cơ quan quản lý giáo dục Ấn Độ kiểm soát việc sử dụng chữ “university” và đã yêu cầu một số trường chưa đạt vị thế một đại học toàn diện (full university) phải loại bỏ chữ “university” khỏi tên gọi chính thức.
Các quốc gia phương Tây như Anh, Australia không có luật “cấm” nhưng quản lý thông qua bảo hộ thương hiệu và quyền cấp bằng. Việc sử dụng từ “university” được bảo vệ bởi luật pháp. Bạn không thể thành lập một công ty rồi đặt tên là “International University” trừ phi được Chính phủ cấp phép hoạt động giáo dục đại học.
Điều này gợi nhớ tới một giai đoạn khi các trường tại Việt Nam “lách luật” bằng cách lấy tên công ty là “Công ty TNHH trường quốc tế XYZ” để đưa bằng được chữ “quốc tế” vào tên trường cho dễ tuyển sinh, dù trường không thực sự có yếu tố quốc tế nào.
Tại Mỹ, các trường thường đặt tên theo bang (State University) hoặc tên người sáng lập. Việc sử dụng từ “National” hay “International” thường chỉ dành cho các tổ chức có quy mô thực sự lớn. Nếu một trường nhỏ tự nhận là “National” mà không có cơ sở, họ có thể bị kiện vì quảng cáo sai sự thật.
Nhưng xã hội Mỹ cũng tồn tại những định kiến nhất định. Những đại học có chữ “International” được cảm nhận là ít danh tiếng, thường tập trung vào việc thu hút thí sinh nước ngoài, nhất là từ các quốc gia kém hoặc đang phát triển, nơi người học khao khát những cụm từ đao to búa lớn như “toàn cầu”, “quốc tế”…
Nhìn chung, danh tiếng của tổ chức không được tạo ra bởi một tên gọi không tương xứng với giá trị, vì sự “lệch pha” sẽ dẫn tới tình trạng “hữu danh vô thực”.
Khi nhắc tới Đại học quốc gia Singapore (NUS), Đại học quốc gia Australia (ANU) đại đa số đều cảm nhận được tầm vóc của trường tương xứng với đóng góp và tầm ảnh hưởng của nó. Tương tự ở Việt Nam, các tên gọi Đại học quốc gia hay Đại học kinh tế quốc dân không tạo ra sự phản cảm vì mức độ ảnh hưởng ở tầm quốc gia của các đơn vị này.
Nhưng cũng đã tồn tại các đại học gắn cụm từ “quốc gia”, “quốc tế” để thu hút người học thiếu kinh nghiệm, trong khi website của trường không thể có phiên bản tiếng Anh, cơ sở vật chất không theo tiêu chuẩn nào, các chương trình học không đạt kiểm định chất lượng của các tổ chức quốc tế.
“Quốc tế” trong tên gọi là một khái niệm mơ hồ (nó chỉ đơn giản là có liên quan đến ít nhất hai quốc gia trở lên), và “chất lượng quốc tế” lại càng là một khái niệm không tồn tại, trong khi đó vẫn là cụm từ hấp dẫn trong marketing, truyền thông và được chấp nhận rộng rãi tại Việt Nam. Có lẽ tâm lý mong muốn “hội nhập” vào thế giới khiến chúng ta có xu hướng thiên vị cho các khái niệm diễn tả đúng mong muốn đạt được các tiêu chuẩn của “thế giới bên ngoài kia”, mặc dù nếu tìm hiểu kỹ thì điều đó không thật sự tồn tại.
Trở lại câu chuyện về sự thống nhất giữa “danh” và “thực”, thì “danh phù kỳ thực” là trạng thái lý tưởng nhất. Một trường đại học mang tên “quốc tế” phải có chương trình, giảng viên và sinh viên đến từ nhiều quốc gia. Nếu “danh” và “thực” khớp nhau, niềm tin xã hội được thiết lập. Tình trạng đối lập “hữu danh vô thực” là sự hư danh.
Nhưng tổ chức muốn đặt một cái tên để truyền tải hoài bão cho tương lai thì sao? Một tổ chức hôm nay chưa phải là “quốc tế” hoàn toàn có thể trở thành một tổ chức toàn cầu sau này. Vậy ranh giới nào cho việc lấy hiện tại để đóng khung tương lai?
Quyền đặt tên và quyền lực quản lý việc đặt tên không tạo ra tình trạng đúng – sai rõ ràng, mà chỉ là các lựa chọn kèm theo lợi ích và những mặt trái. Có lẽ cơ chế tốt nhất là một đại học hay trường đại học khi xin cấp phép thành lập thì có quyền (hay nghĩa vụ) thuyết trình về tên gọi dự kiến trong đề án, nhưng cũng cần có cơ chế để cơ quan cấp phép chấp nhận hay từ chối một tên gọi dựa trên tinh thần lấy lợi ích chung và bền vững của cộng đồng làm ưu tiên cao nhất.
Bùi Khánh Nguyên
Nguồn tin: https://vnexpress.net/sinh-danh-quoc-te-4996288.html

