Bốn năm một lần, các vua nhà Nguyễn sẽ khảo hạch nhân sự trong Thái y viện để giữ lại những người tài.
Nội dung tư liệu thuộc phần hai của triển lãm 3D Y dược triều Nguyễn: Gạch nối nền y học Đông – Tây do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I thực hiện, khai mạc hôm 25/2. Theo Đại Nam thực lục chính biên, tháng 10/1790, hoàng đế Gia Long cho đặt Thái y viện. Ban đầu cơ quan được xây dựng ở phường Dưỡng Sinh trong Kinh thành Huế, đến triều Minh Mạng, viện dời về phía đông Duyệt Thị đường ở Tử Cấm Thành.
Thái y viện thời Nguyễn. Ảnh: Nhất Nam Y Viện
Nhiệm vụ của Thái y viện là chăm sóc sức khỏe cho vua, hoàng tộc, hậu cung, quan lại trong triều đình và quản lý hoạt động y tế của cả nước. Ngoài ra cơ quan phải ”phân biệt hư thực, âm dương và phép gốc ngọn, sau trước, những sự có quan hệ đến thuốc thang”. Viện có nhiều chuyên khoa như Nội, Ngoại, Nhi, Phụ, Nhãn, trong đó Nội và Ngoại là hai chuyên khoa chính.
Năm 1805, vua Gia Long định phẩm hàm, ngạch bậc cho quan viên trong Thái y viện để hoàn thiện bộ máy. Sau đó, vua chia ban, cấp lương tháng cho người làm việc trong viện. Tuy nhiên, bộ máy tổ chức của Thái y viện thời Gia Long còn đơn giản.
Hình dấu ”Thái y viện quan phòng”. Triển lãm được tổ chức dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2/1955-27/2/2025), 130 năm thành lập Viện Pasteur Nha Trang (1895-2025) và 100 năm Viện Pasteur Hà Nội (1925-2025).
Năm 1820, sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân sự, định viên ngạch, phẩm hàm cho họ. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), hoàng đế cho đặt chức viện sứ, trật chánh tứ phẩm đứng đầu viện, năm thứ 16 (1835) ông đặt chức Tả viện phán và Hữu viện phán. Ngoài ra, vua sai chế dấu quan phòng bằng đồng, khắc năm chữ ”Thái y viện quan phòng”, dấu kiểm bằng ngà gồm ba chữ ”Thái y viện”.
Mộc bản triều Nguyễn cho biết việc sát hạch, tuyển chọn quan lại làm việc tại Thái y viện được thực hiện chặt chẽ. Bản khắc về dụ của vua Tự Đức năm 1852 ghi: ”Truyền chỉ cho các quan địa phương, đều xét hỏi trong hạt, có người nào quen nghề làm thuốc, được mọi người khen là xuất sắc ở trong hạt, thì mỗi tỉnh chọn kỹ, lấy một đến hai người, kê rõ họ tên, tuổi, quê quán, rồi tư giao cho bộ Lễ, hội lại làm danh sách tâu lên. Lại hậu cấp tiền lộ phí, cấp giấy cho đến Kinh chờ đợi, rồi giao cho viện Cơ Mật, Nội các, xứ Thị vệ hội đồng sát hạch, chia hạng tâu lên, đợi Chỉ bổ dụng cho rộng nghề làm phúc. Nếu quan tỉnh để cho họ giấu giếm, trốn tránh, đến nỗi bỏ sót người giỏi, khi phát giác ra thì có lỗi không phải nhỏ”.
Các vua triều Nguyễn quy định khảo hạch nhân viên trong viện bốn năm một lần, nhằm chọn được những người thông hiểu y lý. Người làm việc trong cơ quan có sự thay đổi theo từng kỳ. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhân sự là 88 người. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), chuẩn định thuộc viên của viện không được quá 43 người. Ở triều Thành Thái, nhân sự tiếp tục bị cắt giảm.
Bản tấu ngày 17/11 năm Minh Mạng thứ nhất (1820) của Thái y viện về việc đệ trình danh sách nhân viên xin cho thăng thụ phẩm hàm thứ bậc.
Lịch làm việc của Thái Y viện được quy định nghiêm ngặt. Viện sứ và Ngự y ngày đêm cắt lượt nhau để trực khi có việc cần đến, các thuộc viên cũng đều ở viện phụ giúp. Trường hợp vua đi ngự tuần xa, Thái Y viện sẽ cử người mang thuốc thượng phương theo hầu, phòng khi vua gặp bất trắc.
Dưới triều Nguyễn, triều đình cũng quan tâm khám, chữa bệnh, cấp phát thuốc cho quan viên, binh lính và người dân. Nhà Nguyễn cho lập Ty Lương y ở các tỉnh để quản lý, chăm lo y tế ở địa phương. Vua Tự Đức từng dụ: ”Y đạo dù nhỏ cũng là phép của nhân từ, là cốt yếu của cửu lưu. Vậy nên đế vương đời xưa thử thuốc, định đơn để giúp đời sống, thực có công với thiên hạ vạn đời”.
Triển lãm trực tuyến trưng bày hơn 300 tài liệu, hình ảnh theo ba chủ đề: Đông y trong dòng lịch sử Việt Nam, Y dược triều Nguyễn: Gạch nối nền y học Đông – Tây, Tây y trên đất Việt. Qua đó tái hiện lịch sử hình thành, phát triển và thành tựu y học cổ truyền nước Việt, cho thấy sự thâm nhập và những đóng góp của phương Tây với ngành y trong nước.
Tài liệu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia cho biết thư tịch về dược học chỉ bằng 1/10 so với y học, xuất hiện sớm, nội dung chú trọng Nam dược. Các sách có hình thức biên soạn phong phú như văn vần (phú, diễn Nôm, thơ chữ Hán) và văn xuôi.
Có nhiều sách viết về đậu mùa vì đây là bệnh dịch từng hoành hành ở Việt Nam. Một số tác phẩm là Chẩn đậu toàn thu, Chẩn đậu khoa gia truyền, Đậu khoa vựng biên, Đậu khoa thuyết ước ca. Về mạch pháp, các thầy thuốc nước Việt chủ yếu tiếp thu Trung y từ những nhà mạch học như Trương Thái Tố, Vương Thúc Hòa, Đông Viên. Do mạch học là vấn đề khó, đòi hỏi lương y phải hiểu về vị trí, mối liên quan giữa mạch và ngũ hành tương sinh, tương khắc.
Châm cứu là một trong những phương pháp thực hành của y học cổ truyền Trung Quốc. Ở Việt Nam, sách viết về loại hình chữa bệnh này xuất hiện muộn hơn, có sự tiếp thu và chọn lọc.
Ở phần cuối, sự kiện giới thiệu những tư liệu về sự thâm nhập của Tây y, trong bối cảnh người Pháp vào nước ta. Sau khi đặt bộ máy chính trị ở Việt Nam, Pháp bắt đầu xây dựng một hệ thống y tế mới. Năm 1902, trường Y Đông Dương ra đời nhằm đào tạo sinh viên địa phương góp phần cải thiện sức khỏe của người dân và truyền bá Tây y. Các cơ quan quản lý y tế, viện nghiên cứu và cơ sở khám chữa bệnh từng bước được thành lập.
Nội dung phần ba còn đề cập chân dung những bác sĩ người Pháp trên đất Việt, như Albert Sallet, Alexandre Yersin và một số bác sĩ Tây y đầu tiên của Việt Nam gồm Hồ Đắc Di, Henriette Bùi Quang Chiêu.
Thông tin của bác sĩ Hồ Đắc Di. Các tài liệu trong triển lãm được lựa chọn từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Quốc gia Pháp và nhiều nguồn khác.
Phương Linh
Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Nguồn tin: https://vnexpress.net/thai-y-vien-trieu-nguyen-hoat-dong-the-nao-4854701.html