“Ở đâu không có tầm nhìn, con người sẽ tàn lụi” – Ngạn ngữ
“Tôi không sợ nói rằng, trong tất cả các loại triết học, thì triết học đạo đức là cái thích hợp nhất cho nhu cầu của con người thời đại chúng ta.” – Tocqueville
Trách nhiệm là cái gì cao cả: trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội, và trong thế kỷ 21, trách nhiệm đối với hòa bình thế giới, và bảo vệ hành tinh xanh khỏi bị sụp đổ. Trách nhiệm là thể hiện lòng trắc ẩn (compassion): các thùng nước uống miễn phí đặt bên vệ đường, các quán cơm 2.000 đồng, thư viện cho những vùng khó khăn, mái trường cũng như ký túc xá cho các em học sinh vùng sâu, vùng xa; hay một chỗ dạy sinh viên miễn phí về công nghệ cao ở Cần Thơ. Hay đề án hai triệu quyển sách của ông chủ Trung Nguyên, Đặng Lê Nguyên Vũ, để thổi luồng gió yêu nước, khởi nghiệp kinh doanh sáng tạo. Hay hành động xây Ký túc xá 40 tỷ của doanh nhân Phạm Văn Bên. Hay việc xây dựng Trung tâm hội thảo quốc tế khoa học ICISE của vợ chồng GS Trần Thanh Vân và bà Lê Kim Ngọc.
Trách nhiệm cao cả nhất của một công dân là trách nhiệm đối với quốc gia. J. F. Kennedy trong lễ nhậm chức ngày 20, tháng giêng, 1961, đã để lại một câu nói đáng nhớ mãi cho đời sau: “Đừng hỏi đất nước làm gì cho bạn, mà nên hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước“.
Để thấy trách nhiệm cá nhân, chúng ta cần biết đất nước đang đứng ở đâu. Đất nước chúng ta đang bị lạc hậu. Lạc hậu từ tiếng súng của Pháp tại Đà Nẵng giữa thế kỷ 19. Chúng ta vẫn lạc hậu 60 năm sau khi Phan Châu Trinh viết các bài chính luận vào đầu thế kỷ 20. Chúng ta lạc hậu thế kỷ 20. Và đầu thế kỷ 21 chúng ta vẫn lạc hậu mà chưa thấy lối ra. Kinh tế chúng ta là kinh tế tạm bợ, chắp vá, gia công, lấp ráp. Sức mạnh dân tộc 90 triệu chưa bật lên như 35 triệu dân tộc Nhật 150 trước, hay 35 triệu dân tộc Hàn năm 1975. Chúng ta đông nhưng không mạnh. Người Nhật, người Hàn không bao giờ hài lòng với kinh tế làm thuê. Chúng ta chưa có cơ sở hạ từng tri thức để phát triển tài năng ngay tại chỗ. Chúng ta đang chảy máu chất xám.
Thanh niên Nhật thời Minh Trị đi học không phải để đi làm quan, hay công chức, hay chỉ học cho cá nhân. Mà họ học vì tham vọng muốn đưa đất nước ngang lên bằng với các cường quốc. Họ học để sáng tạo, vực dậy đất nước đang cũ kỹ, để tự hào trở thành một công dân toàn cầu không thua kém ai. Đó là trách nhiệm tự thân của họ.
Người Nhật tự hào mình là dân tộc đạo đức, đạo đức hơn cả phương Tây! Khẩu hiệu khai sáng của họ thời Minh Trị là “Công nghệ phương Tây, Đạo đức phương Đông”. Đạo đức là cái gốc của con người. Có đạo đức mới xây dựng được đất nước. Cụ Phan Châu Trinh từng nhận xét: “Chúng ta mất nước cũng vì chúng ta mất đạo đức. Đạo đức bao gồm trách nhiệm cao nhất đối với xã hội.”
ŌKUMA SHIGENOBU, người sáng lập Đại học Waseda năm 1882, để lại một thông điệp có tầm nhìn cho thanh niên Nhật Bản: Hãy là “công dân mẫu”, để trở thành “công dân thế giới”, tức “công dân toàn cầu”, như là một trách nhiệm cao cả:
“Nhật Bản hôm nay đứng giữa hai nền văn hoá Đông và Tây. Lý tưởng lớn của chúng ta nằm ở chỗ tạo dựng sự hài hoà của hai nền văn hoá này, và ở sự nâng cao nền văn minh phương Đông lên tầm cao của nền văn hoá phương Tây để cho hai nền văn hoá cùng tồn tại trong sự hài hoà…Để đạt được điều đó, chúng ta trước nhất phải biến độc lập của sự học [Humboldt] và sự áp dụng của nó thành mục tiêu chính yếu của chúng ta; chúng ta phải nổ lực theo đuổi nghiên cứu độc đáo và sau đó áp dụng kết quả của các nghiên cứu đó một cách thực tiễn. Những ai dấn thân vào một sự nghiệp như thế phải tôn trọng chính cá nhân của mình, nổ lực mưu tìm phúc lợi của gia đình họ, lao động cho lợi ích của nhà nước và xã hội họ, và tham gia vào những vấn đề thế giới. Đấy chính là người công dân mẫu…”
Để có thể trở thành công dân mẫu, tri thức thôi không đủ; sự xây dựng một nhân cách đạo đức là cần thiết… Do đó, nguyên lý cơ bản của giáo dục phải là sự rèn luyện tính cách. Người ta trở thành ích kỷ nếu chỉ nổ lực thu thập tri thức chuyên môn và quên đi những điều tôi nói ở trên. Hơn nữa, tinh thần tự hy sinh của con người cho quốc gia họ và cho thế giới sẽ từ từ suy sụp đi…
Khoa học ứng dụng chính là điều nhà khai sáng Yukichi Fukuzawa từng kêu gọi trong tác phẩm nổi tiếng Khuyến Học: Hãy chuyển sang Thực học, xa rời loại Tiến sĩ rởm. Ông kêu gọi thanh niên Nhật Bản:
“Đã quyết chí học hành thì phải học cho đến nơi đến chốn. Còn nếu theo nghề nông thì quyết trở thành hào phú. Nếu làm thương nghiệp thì phải quyết trở thành đại thương gia.
Sinh viên không được mãn nguyện vì sự ổn định cỏn con của mình.”
Lý tưởng của họ rất lớn. Và họ nói là làm. Thực tế, khi Ōkuma gửi thông điệp trên, 1901, thì Nhật Bản đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng tri thức, các thể chế đại học và nghiên cứu, điều quan trọng hơn, dâm bồi được văn hóa khoa học của phương Tây lên mãnh đất họ để tự đào tạo và nuôi dưỡng những hạt giống tại chỗ. Họ chỉ mất 30 năm để làm việc đó. Đó là trách nhiệm của nhà nước. Giải Nobel đầu tiên của Hideki Yukawa 1949 là trái ngọt tất yếu của mảnh đất văn hóa đó. Ông là nhà khoa học đầu tiên được đào tạo 100% trong nước. Tiếp theo, Shin’ichirō Tomonaga, người bạn đồng môn của ông, nhận giải Nobel thứ nhì năm 1965. Nhật Bản thực tế đã trở thành một trung tâm học thuật của thế giới, đi từ bắt chước đến sáng tạo, như những người cha lập quốc từng mơ ước.
Nền học thuật của VN là tụt hậu. Những tài năng như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn chỉ có thể phát huy ở nước ngoài, và rồi chẳng thể về VN sống và làm việc được. Chúng ta mãi mãi là vùng trũng của tri thức hay sao?
Nước Mỹ đã chứng minh một điều: Họ rất cá nhân chủ nghĩa, rất tư bản chủ nghĩa, nhưng lại rất giàu lòng nhân ái. Lòng vị kỷ (self-love) được khai sáng sẽ trở thành vị tha (altruism). Hãy xem các nhà hoạt động nhân ái của họ như Andrew Carnegie, Leland Stanford, như Ezra Cornell, Henri Ford, John Rockefeller, rồi đến các nhà tỉ phú hôm nay: Bill Gates và vợ, Warren Buffett, Mark Zuckerberg và vợ, Chuck Feeney. Cuối thế kỷ 19, đầu 20, họ đã xây dựng các đại học vĩ đại, vì biết rằng họ đang hái những trái thấp, các thế hệ sau muốn hái được những trái cao thì phải cần đến các bậc thang cao của tri thức, và đó chính là các đại học mà họ đã đầu tư. Năm mươi năm sau, các đại học đó thăng hoa, và ngày nay thăng hoa chưa từng có, để phục vụ đắc lực nền kinh tế Mỹ. Đó là sự thể hiện trách nhiệm từ tầm nhìn cao của những nhà giàu Mỹ.
Một cuộc Khai sáng bị bỏ quên. Khi đề cập các cuộc Khai sáng trong lịch sử, người ta thường nhắc đến những tính chất như lý tính, dân quyền, tự do, bình đẳng, khoan dung, tiến bộ và khoa học, trong đó lý tính luôn luôn đứng đầu. Điều đó không sai. Nhưng người ta đã bỏ quên tính chất đức hạnh (virtue). Lý trí không chưa đủ, mà còn phải có lòng thương cảm, con người mới tồn tại được. Một cuộc Khai sáng đạo đức, Moral Enlightenment, vì thế là rất cần thiết: của những “đức hạnh xã hội” – như lòng trắc ẩn (compassion), nhân từ (benevolence), mối thương cảm (sympathy). Nước Anh thế kỷ 18 đã cung cấp cho nhân loại cuộc khai sáng như thế, được đại biểu bởi David Hume và Adam Smith. Smith nổi tiếng từ thời ông vừa là nhà kinh tế chính trị học, vừa là nhà triết học của đạo đức (moral philosopher). Tác phẩm Theory of Moral Sentiments (Lý thuyết của Những tình cảm đạo đức, 1759), ra đời trước tác phẩm Wealth of Nations (Sự phồn vinh của các quốc gia, 1776) 17 năm, và được tái bản nhiều lần. “Lòng thương hại” (pity), “Lòng trắc ẩn” hay “Từ bi”, “Lòng nhân từ”, “Mối thương cảm”, là những từ mà Smith đã dùng trong quyển sách để chỉ ra các phẩm chất cơ bản của bản chất con người tạo thành các tình cảm đạo đức của chúng ta. “Chính sự cảm nhận nhiều hơn cho người khác, ít hơn đi cho chúng ta, hạn chế sự ích kỷ, và có nhiều tình cảm nhân từ, là những tính chất làm thành sự hoàn hảo của bản chất con người.” Theo Smith, khu vực công được ngự trị bởi nguyên lý của công lý (justice) có tầm quan trọng thứ yếu so với khu vực tư, nơi những tình cảm của lòng thương cảm và từ tâm là quan trọng hàng đầu.
Thế kỷ 18 của Anh quốc còn là “Thời đại của lòng nhân từ” (Age of Benevolence), với vô số tổ chức từ thiện, nhân ái, “Sunday Schools” (dạy học những người nghèo), hay “Friendly Societies” (các tổ chức của công nhân tự bảo hiểm để tương trợ lẫn nhau). Nhưng rồi, thời đại này cũng dần dần yếu đi trước những biến cố lịch sử, người đời thích những giá trị cổ điển như chủ nghĩa anh hùng, lòng dũng cảm, và sự minh triết. Smith đã để ra năm cuối đời để bổ sung vào quyển sách Những tình cảm đạo đức của ông một chương mới có tiêu đề: “Về sự thoái hóa của những tình cảm đạo đức của chúng ta, điều đã bị gây ra bởi khuynh hướng ngưỡng mộ người giàu và kẻ lớn, và khinh miệt hay bỏ quên những người sống nghèo khổ và khó khăn.” Ông đã linh tính những diễn biến sắp tới.
May thay, di sản Khai sáng đạo đức của nước Anh đã được chuyển sang bên kia bờ Đại Tây Dương. Các nhà giàu Mỹ, hay người Mỹ nói chung, tiếp tục làm cuộc khai sáng đạo đức của nước Anh – bằng những hành động phi thường. Anh quốc của thế kỷ 18, và Hoa Kỳ của thế kỷ 20 và 21, là đất nước của những “Sự đam mê lòng trắc ẩn” (passion of compassion), như từ ngữ đáng ghi nhớ của bà Hannah Arendt.
Ở đây, chúng ta không thể quên một nhà hoạt động nhân ái lớn của Mỹ đã tiếp sức cho Việt Nam. Đó là tỉ phú Chuck Feeney, người giàu lên từ chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shop. Từ 1998 – 2006, ông đã giúp VN tổng cộng $220 triệu cho các đề án giáo dục, y tế, thư viện, từ Cần Thơ ra miền Trung lên đến Thái Nguyên. Nhưng điều ít ai biết là: Quỹ Atlantic Philanthropies của ông đã tài trợ phân nửa chi phí xây dựng cho Đại học RMIT Nam Sài gòn, 33,6 triệu USD, để đại học này hình thành từ mảnh đất hoang. Mục đích ông là muốn thấy một đại học hiện đại (state-of-art) để “làm kiểu mẫu” cho các đại học VN, như cựu thủ tướng Phan Văn Khải mong mỏi. Ông thể hiện tiêu chí của hoạt động nhân ái (philanthropy): “Cho ai con cá, nuôi người đó một ngày. Dạy ai câu cá, nuôi người đó cả đời.” Một trái tim vàng được dành cho Việt Nam từ một người xa lạ. Chuck Feeney tâm sự: “ông cảm thấy VN như ngọn đèn, và ông là con mối, mối cứ bay vào đèn“. Ông là một con người hết sức đặc biệt, đã để lại tất cả tài sản của mình, cho người khác sống.
Thiết nghĩ, Việt Nam cần có một tổ chức để vinh danh những người tử tế, những tấm lòng vị tha, để phát huy tiếng gọi của trái tim. Đất nước chúng ta phải là đất nước của lòng vị tha, nhân ái. Ước gì Chuck Feeney có mặt tại đây với chúng ta! Ước gì cộng đồng VN có dịp tiếp xúc ông để được truyền cảm hứng, và để nói hai chữ: Cám ơn!
Chúng ta rất cảm ơn anh Dương Thụ đã tổ chức buổi nói chuyện về trách nhiệm rất bổ ích hôm nay. Sẽ thiếu sót lớn, nếu không nhắc đến những hoạt động kiên trì của anh để kết nối về văn hóa, truyền cảm hứng, và thông tin, trong tinh thần cởi mở học hỏi lẫn nhau từ ngót một thập kỷ qua. Chúng ta có thể uống cà phê tại nhiều quán khác, nhưng chỉ ở đây chúng ta mới uống được những cốc cà phê nhân văn, và nhân ái. Anh thuộc loại người mà phương Tây gọi là social entrepreneur, có nghĩa là người góp phần “đổi mới sáng tạo văn hóa”, có lợi cho cộng đồng nhiều hơn lợi cho anh. Những người đã từng làm thay đổi văn hóa, nếp nghĩ của xã hội trong lịch sử như Francis Bacon, Galileo Galilei, Isaac Newton hay Albert Einstein đều là những social entrepreneur tên tuổi.
Cà phê Thứ Bảy, xét về mặt mô hình, giống như một hạt giống của sân chơi TED của New York, nơi hội tụ mọi tài năng có sáng kiến hay, từ những người trẻ chưa nổi tiếng, đến cả những nhà khoa học giải Nobel, hay cả tổng thống. TED là sân chơi của “ý tưởng đáng truyền đạt” trong những lãnh vực Technology, Entertainment và Design. Đây là một ý tưởng tuyệt vời, hội tụ của giới tinh hoa liên ngành. Bill Gates cho rằng chỉ số IQ tổng hợp của tập thể này là lớn khủng khiếp. TED thật ra là sự lập lại mô hình của thành phố Florence, Ý, nơi gia đình Medici, một gia đình giàu có trị vì, nhưng có tầm nhìn, mời tất cả tài năng nghệ thuật và khoa học của nước Ý đến để tạo ra hiệu ứng Phục Hưng. Người ta gọi đó là Hiệu ứng Medici.
Chúng ta mong mỏi Cà phê thứ Bảy sẽ là nơi hội tụ ngày càng nhiều hơn nữa những tài năng Việt Nam để cho những ý tưởng hay lan tỏa, vì lợi ích của cộng đồng. Xin nhiệt liệt hoan nghênh và cám ơn anh Dương Thụ.
Nguyễn Xuân Xanh
Tháng 6, 2017