Tác giả Bình Nguyên Lộc khắc họa nỗi cô đơn của người xa quê trong những cuộc di dân do biến động lịch sử, ở tiểu thuyết “Đò dọc”.
Trong tác phẩm từng giành Giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1959-1960, Bình Nguyên Lộc kể câu chuyện về gia đình ông bà Nam Thành với bốn cô con gái, từ Bạc Liêu lên Sài Gòn, rồi trôi dạt về Thủ Đức do biến động xã hội.
Từ Sài Gòn về làng thuốc Linh Chiểu, ở nơi mà nhà lân cận cách xa “cỡ hú một tiếng dài mới nghe”, gia đình họ cảm thấy cô đơn, lạc lõng. 10 năm ở Sài Gòn chưa đủ để thành phố hóa quê hương, rời đi giữa sự thờ ơ của hàng xóm. Đến lúc tới miền quê chỉ có đèn măng sông tù mù và những người quê, họ “như bị cách biệt với thế giới bằng một bức tường khoảng không”.
Nhà văn cho thấy chốn miền quê, nơi con người quanh quẩn với công việc làm nông, trong tiếng côn trùng, ễnh ương. Sự hiu hắt được Bình Nguyên Lộc đề cập: “Con đường Thiên Lý nối lại nhiều nơi xa xôi, nối lại những tấm lòng từ chân trời Hải Vân đến góc bể Cà Mau, con đường đưa lên đưa xuống những chàng thanh niên mà lòng còn bơ vơ chưa cặm sào nơi đâu cả, con đường thờ ơ, ấy chỉ là một chuyến đò dọc thôi. Khách qua đò không bao giờ ghé bến hết. Không, không làm sao mà một chàng trai nào bỗng dưng ghé lại xóm này”.
Không khí ngột ngạt khiến bốn người con đang tuổi lấy chồng của ông bà Nam Thành thêm phiền muộn. Đến bà Nam Thành cũng nhận ra “ở đây không phải chỗ của chúng nó. Chỗ của chúng phải vui tươi trẻ trung, sinh động hơn cái không khí ủ rũ này”.
Tác giả mượn câu chuyện để phản ánh bức tranh xã hội, trong đó có những cuộc di dân do biến động lịch sử và sự phân biệt giữa dân chợ (người thành thị) với dân quê. Sự lạc lõng, cô đơn của gia đình ông Nam Thành là nỗi cô đơn chung của những phận người trôi dạt, chưa kịp dừng chân ở nơi đâu.
Viết về xã hội buổi giao thời, khi cái hiện đại vừa chớm lan tỏa từ thành thị đến thôn quê, nhà văn Bình Nguyên Lộc sử dụng góc nhìn nhân văn nói lên những thay đổi trong quan niệm của người đương thời về hôn nhân và vai trò phụ nữ.
Khi gia đình tình cờ cứu chàng họa sĩ tên Long bị tai nạn xe và để chàng dưỡng thương tại nhà, các cô gái cùng phải lòng một người. Giữa sự nóng ruột muốn gả con của ông bà Nam Thành, những yêu thương bồng bột của tuổi trẻ, chuyện éo le lên đến đỉnh điểm, xảy ra những đố kỵ, tranh giành tình yêu. Sau cùng, mâu thuẫn được hóa giải bằng tình cảm gia đình.
Sự trân trọng phụ nữ được mô tả ở góc nhìn của họa sĩ Long. Trước cảnh cô em gái út được hỏi cưới, Long thông cảm cho phản ứng của các cô gái: “Phản ứng ấy là sự công phẫn của họ đối với trò xem mặt “các chú lái đi coi heo”. Khi biết các cô gái trót mang lòng yêu thương mình, chàng không coi thường, mà thương cảm cho số phận của họ. Khi biết người con gái mình thích đã một lần lầm lỡ, Long không khinh thường hay trách cứ mà dễ dàng đón nhận.
Ngòi bút của nhà văn gợi nhớ đến không khí gia đình của tác phẩm kinh điển – Little Women của Louisa May Alcott. Tác giả xây dựng chi tiết tính cách bốn người con gái, họ có cá tính riêng nhưng đều yêu thương nhau, duyên dáng theo cách riêng.
Khung cảnh đời sống người dân Nam bộ hiện lên qua từng trang sách. Trong đó, căn nhà của gia đình ông bà Nam Thành toát lên vẻ truyền thống với những lọ sành Lái Thiêu, mâm gỗ mít, phên tre. Những dụng cụ vừa quen vừa lạ, như đèn măng sông, cần vọt, cái lu, máy chiếu phim, loại cây cỏ ở vùng quê như trái lồng mứt, cỏ bù xít.
Nhà văn nhiều lần đưa ra bình luận về các tên gọi và cách dùng từ của người miền Nam, ví dụ: “Người miền Nam ta có nhiều lối đặt tên con rất ngộ nghĩnh. Có lối đặt liền với tên cha, hễ cha tên Sang thì con phải tên Trọng, cha tên Phú thì con phải tên Quí, cha tên Sâm thì con phải tên Nhung. Có lối đặt liền với nhau. Thí dụ bốn đứa thì đặt: Nết, Na, Đằm, Thắm; năm đứa thì đặt: Cửu, Hạn, Phùng, Cam, Võ. Ông Nam Thành đặt tên con một cách đặt biệt hơn ai cả, ông dựa theo năm chữ nhạc đầu trong điệu Bình bán vắn mà quyết định giọng của chữ tên của con ông. Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm”.
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, xuất thân trong một gia đình có mười đời sống tại Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Bình Dương). Không chỉ là nhà văn lớn, ông còn là nhà văn hóa Nam bộ trong giai đoạn 1945-1975, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và cổ văn. Trong sự nghiệp, tác giả có khoảng 50 tiểu thuyết, 1000 truyện ngắn và bốn cuốn sách nghiên cứu như Mưa thu nhớ tằm, Cõi âm nơi quán cây dương, Mối tình cuối cùng, Tân liêu trai và Hương quê. Một số tác phẩm của ông chưa kịp in đã bị thất lạc, hủy hoại trong chiến tranh.
Quế Chi
Nguồn tin: https://vnexpress.net/do-doc-noi-niem-nguoi-xa-que-4731879.html