Giáo sư Trần Đại Nghĩa cùng đồng đội từng tháo đường ray xe lửa để sản xuất đạn bazôca, khiến phe địch chịu tổn thất lớn.
Hồi ký của Giáo sư Trần Đại Nghĩa được phát hành nhân kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/2025), thuật lại cuộc đời, sự nghiệp của “vua vũ khí”. Dịp này, VnExpress đăng một số trích đoạn, tên các phần do tòa soạn đặt.
Lên Tuyên Quang
Đến cuối tháng 3/1947, Cục Quân giới nhận lệnh tản cư lên Tuyên Quang. Trên đường đi, khi qua Phú Thọ, tôi gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đồng chí gọi tôi lại và nói rằng Bộ rất mừng vì số đạn bazôca chúng tôi sản xuất đã phát huy tác dụng tốt. Tôi nghe mà càng phấn chấn, vững tin hơn vào con đường mình đã chọn.
Giáo sư Trần Đại Nghĩa (thứ hai từ phải qua) giới thiệu với Đại tướng Võ Nguyên Giáp (phải) vũ khí do công binh xưởng sản xuất tại Đại hội lần thứ nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1/1/1950). Ảnh tư liệu
Như vậy là việc nghiên cứu và sản xuất bazôca đã thành công, mở ra khả năng trang bị cho bộ đội loại vũ khí mới để chống lại xe tăng và thiết giáp của địch. Bên cạnh việc tiếp tục nghiên cứu các loại vũ khí khác, chúng tôi tập trung vào nhiệm vụ sản xuất thêm để đáp ứng nhu cầu chiến đấu ngày càng lớn.
Nhưng một vấn đề lớn lập tức nảy sinh: nguyên liệu. Thời kỳ đầu, khi còn ở Thái Nguyên, ta tận dụng được một số lượng khá lớn thuốc pháo của Pháp để lại trong các xưởng sửa chữa vũ khí mà chúng chưa kịp phá hủy. Ở nhà máy Hỏa xa Tràng Thi, ta còn tận dụng được ống lò hơi cũ để gia công hàng loạt bộ phận cơ khí của đạn bazôca. Nguyên liệu đó rất tốt, giúp anh em sản xuất nhanh hơn hàng trăm lần so với hồi ở Giang Tiên.
Nhưng về sau, sử dụng mãi thì số nguyên liệu ấy cũng cạn kiệt, không thể tìm thêm được nguồn tương tự. Đây trở thành khó khăn mới, cần phải tìm cách giải quyết ngay để duy trì sản xuất.
Tìm nguyên liệu sản xuất đạn
Vấn đề nguyên liệu nhanh chóng được đưa ra thảo luận giữa cán bộ và công nhân. Rất nhiều ý kiến đáng chú ý được nêu ra. Sau cùng, anh em phát hiện thứ nguyên liệu dồi dào nhất chính là đường ray xe lửa – hàng ngàn km, có thể tận dụng gần như vô hạn. Sáng kiến này được tập thể hoan nghênh, nhưng một trở ngại lớn lập tức xuất hiện: đường ray xe lửa tuy là loại thép rất tốt nhưng cực kỳ cứng, làm thế nào biến được nó thành vỏ đạn bazôca hoặc súng cối? Đây không phải việc đơn giản.
Chính lúc này, vai trò của đội ngũ cán bộ kỹ thuật và giai cấp công nhân bộc lộ rõ rệt. May mắn cho chúng tôi, đi theo lên Tuyên Quang có đồng chí Đào Văn Lý, lúc đó là quản đốc phân xưởng rèn (trước vốn là một công nhân rèn giỏi, nghề truyền từ cha). Theo chỉ thị của tôi, đồng chí Lý triệu tập một hội nghị gồm những công nhân rèn giỏi nhất của Khu 3 và Khu 4 để bàn cách biến đường ray xe lửa thành vỏ đạn và đạn cối. Cuộc nghiên cứu kéo dài suốt ba tháng trời, vô cùng gian khổ và cần tập trung một lực lượng công nhân kỹ thuật lớn.
Khi tôi gặp lại đồng chí Lý tại bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, chúng tôi nhắc lại chuyện này. Tôi nói với đồng chí Lý: “Ba tháng như vậy là nhanh đó, không phải dài đâu. Nhờ vậy mà chúng ta thành công. Tận dụng được số đường ray ấy, ta mới sản xuất được đạn bazôca và các loại vũ khí khác với số lượng lớn, đáp ứng kịp thời cho chiến đấu và cho các chiến dịch sau này”.
Trước kia (đầu năm 1947), vì sản xuất được ít nên bộ đội chỉ dùng ở mức độ hạn chế, chủ yếu để đánh xe tăng và xe thiết giáp. Nhưng về sau, khi số lượng súng đạn đã tăng lên, anh em sáng tạo rất nhiều cách sử dụng:
• Bắn xe ô tô,
• Bắn vào ổ súng máy,
• Thay thế cho lựu đạn ở nơi địch tập trung đông,
• Thậm chí bắn cả vào tàu tuần tiễu của địch.
Kết quả gây cho chúng tổn thất rất lớn.
Đạn bazôca có tầm bắn tới 600 m – xa hơn rất nhiều so với lựu đạn. Vỏ đạn bằng thép nên phạm vi sát thương rộng (khoảng 50 mét, chứ không phải vài chục mét như lựu đạn). Một đặc điểm nữa là khi bắn vào bộ binh, địch có thể bị tiêu diệt hoàn toàn bằng sức ép, nhưng vũ khí trên người chúng không hư hỏng, bộ đội ta dễ dàng thu lấy để dùng lại.
Các bức điện của các đơn vị tham gia chiến dịch đã gửi về cho cục Quân giới đều nói là đạn bazôca bắn xe ôtô địch rất tốt, chỉ một phát nổ là những tên địch trên xe ôtô đều chết hết, tuy không bị thương gì cả, chết vì sức ép, nhưng vũ khí của chúng thì lại không bị hư hỏng gì cả, anh em ta tha hồ lượm đem về dùng.
Tổ chức sản xuất vũ khí cho toàn dân ở Tuyên Quang, song song với việc nghiên cứu vũ khí mới và đốc thúc sản xuất tại các khu quân giới ở Bắc Bộ và Khu 4, chúng tôi bắt đầu xây dựng kế hoạch tập trung sản xuất các loại vũ khí cơ bản dùng cho phòng ngự.
Lúc đầu, chúng tôi dự tính sử dụng khoảng một phần ba lực lượng của Cục Quân giới để trực tiếp giúp các địa phương chế tạo vũ khí trang bị cho dân quân du kích. Nhưng cách làm ấy nhanh chóng bộc lộ hạn chế: Không thể nào đáp ứng được yêu cầu chiến đấu đang tăng lên từng ngày. Muốn bảo đảm lâu dài, chúng tôi phải tìm biện pháp để địa phương tự sản xuất được, không phụ thuộc vào Cục. Mục tiêu đặt ra: Địa phương phải tự túc được khoảng 98% trọng lượng vũ khí cơ bản.
Để làm được điều đó, chúng tôi xem xét lại toàn bộ thiết kế các loại lựu đạn, tìm cách tận dụng tối đa nguyên liệu địa phương. Lựu đạn bằng gang cũng được, bằng sành có khía sẵn để khi nổ vỡ thành nhiều mảnh cũng được, miễn là đủ sát thương. Chúng tôi cho vẽ đầy đủ các mẫu lựu đạn gửi về các nơi, đồng thời mở các lớp bồi dưỡng kỹ thuật để đào tạo công nhân, hướng dẫn cách sản xuất. Những bộ phận khó làm nhưng nhẹ, đòi hỏi độ chính xác cao như:
• Nụ xòe lựu đạn,
• Thuốc nổ,
Những bộ phận này thì Cục Quân giới sản xuất hàng loạt rồi gửi về địa phương. Nhờ các biện pháp đó, trọng lượng vũ khí cơ bản do nhân dân tự làm tăng lên hàng chục lần, hỗ trợ rất lớn cho lực lượng dân quân du kích của ta.
Chúng tôi cũng thường xuyên căn dặn các đơn vị và địa phương: Trong quá trình chiến đấu, hễ có kinh nghiệm gì về sản xuất hay sử dụng vũ khí, phải kịp thời gửi ngay về Cục Quân giới để tổng hợp, phổ biến rộng rãi cho nơi khác, đồng thời rút kinh nghiệm từ chiến tranh thế giới. Làm được như vậy, chúng tôi đã thực hiện đúng lời Bác dặn: “Phải hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn nhân dân các địa phương để nhân dân có thể tự túc, tự cấp được vũ khí, cùng nhau đánh giặc cứu nước”.
Tận dụng nguồn nguyên liệu của địch
Chúng tôi cũng hướng dẫn các địa phương tìm cách lấy thuốc nổ tốt và rất nhiều của địch. Cách làm rất đơn giản nhưng hiệu quả: Dựng những chiếc lều nhỏ, thật lộ liễu trên các bãi đất mềm hoặc vùng lầy. Máy bay địch sẽ ném bom vào đó; bom rơi xuống đất mềm thường không nổ. Ta chỉ việc đào lên, tháo thuốc ra theo đúng quy trình an toàn và bằng các dụng cụ chuyên dùng. Chỉ một quả bom 100 kg không nổ cũng đủ thuốc để làm 600 quả lựu đạn. Đó là biểu hiện rất sinh động của chiến tranh nhân dân.
Hồi đó, chúng tôi thu được một số mìn lớn của Mỹ, loại nặng chừng năm kg. Thử nghiệm cho thấy sức xuyên phá bê tông cốt thép của nó rất mạnh. Chính loại mìn này đã trở thành cơ sở kỹ thuật để chúng tôi nghiên cứu và chế tạo đầu đạn lõm cho loại súng không giật (SKZ) cỡ 60 mm, sử dụng đầu đạn lõm đường kính 160 mm để bắn vào lô cốt, pháo đài kiên cố của địch.
Súng rất nhẹ, chỉ khoảng 20 kg, dùng bắn gần; đầu lõm có khả năng xuyên tầng bê tông dày hơn một mét. Đây là loại vũ khí phải nghiên cứu hết sức công phu. Anh em còn phát hiện địch bỏ lại một số lượng lớn đạn đại bác hải quân 300 mm tại vài kho của chúng. Chúng tôi thu được vài trăm viên, mỗi viên chứa hơn 200 kg thuốc nổ mạnh. Đây là nguồn nguyên liệu cực kỳ quý giá, đặc biệt trong bối cảnh thuốc nổ là yếu tố thiết yếu để sản xuất nhiều loại vũ khí khác, trong đó có cả bazôca.
Ấn phẩm dày 240 trang, do NXB Lao Động và HanoiBooks phát hành. Ảnh: NXB cung cấp
Ngoài việc tận dụng thuốc nổ, chúng tôi còn dùng chính các quả đạn hải quân ấy để chế tạo thủy lôi. Thử nghiệm trên sông Lô cho kết quả rất tốt: Khi nổ, cột nước bắn lên cao tới 50 mét, sức công phá rất mạnh, có thể dùng để đánh tàu chiến địch. Thời điểm đó, do chỉ thị của cấp trên về chủ trương trường kỳ kháng chiến, các ủy ban nhân dân địa phương phải phá hủy nhiều nhà cao tầng kiên cố mà không biết phải làm thế nào. Chúng tôi cung cấp những quả đạn hải quân này và hướng dẫn cách sử dụng. Chỉ cần treo quả đạn vào giữa nhà và kích nổ bằng điện, toàn bộ công trình lập tức sụp xuống. Nếu chỉ dùng sức người và búa tay thì phá đến bao giờ mới xong?
Nhờ có nguồn thuốc nổ dồi dào, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và chế tạo loại đạn chống tăng cỡ nhỏ gọi là đạn AT, nặng chỉ khoảng 700 gam. Đây là loại đạn dùng để bắn vào thiết giáp và xe cơ giới của địch. Cách sản xuất loại đạn này khá đơn giản: chỉ cần một ống phóng gắn vào đầu nòng súng, tương tự loại tromblon của Pháp. Khi bắn, quả đạn AT được đẩy đi xa; khi chạm vào lớp giáp hoặc thân xe, nó sẽ phát nổ, gây sát thương sinh lực địch và phá hủy phương tiện. Loại đạn này rất nhẹ, dễ sử dụng, chiến sĩ nào cũng có thể thao tác.
Trong thời gian đóng quân tại Tuyên Quang, từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1947, chúng tôi còn hỗ trợ đơn vị pháo binh ở Bình Ca sửa chữa lại đạn, chỉnh lý pháo, hướng dẫn cách bắn đúng tầm và đúng kỹ thuật.
Nhờ vậy, khi các đoàn tàu chiến của địch ngược lên sông Lô trong chiến dịch Thu – Đông (1947-1948), bộ đội pháo binh đã chiến đấu rất hiệu quả, bắn chìm tàu địch và thu được một lượng lớn vũ khí, đạn dược trong các con tàu bị đánh đắm. Số vũ khí thu được ấy đã tăng cường đáng kể cho trang bị của quân đội ta.
(Trích Hồi ký Giáo sư Trần Đại Nghĩa)
Còn tiếp
Nguồn tin: https://vnexpress.net/hoi-ky-vua-vu-khi-tran-dai-nghia-ky-1-san-xuat-dan-bazoca-thoi-chien-4998915.html

