Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do vi khuẩn Corynebacterium diphtheria gây ra. Đây là một trong những căn nguyên gây bệnh và tử vong hàng đầu trong thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, hiện nay nhờ chương trình tiêm chủng, bệnh đã giảm rõ rệt và ít gặp hơn, tỉ lệ tử vong do đó cũng giảm nhiều. Bệnh gây nhiễm độc nặng do ngoại độc tố của vi khuẩn. Tổn thương chủ yếu là các màng giả ở họng, thanh quản, mũi…
Bạch hầu đường hô hấp có những triệu chứng nào?
BS Bùi Thu Phương, khoa Nhi (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108) cho biết: Thời kỳ ủ bệnh: khoảng 2-5 ngày, không có biểu hiện gì, có tiền sử tiếp xúc người bệnh và trong vụ dịch.
Thời kỳ khởi phát bệnh: Thường tiến triển từ từ, bệnh nhân sốt nhẹ, có các biểu hiện viêm hô hấp cấp như đau họng, chảy nước mũi, khó chịu, da xanh.
Thời kỳ toàn phát: Sốt nhẹ hoặc không sốt, ho và đau họng, khó nuốt, đau đầu, khàn giọng; Vẻ mặt nhiễm trùng nhiễm độc nặng, miệng hôi, mệt mỏi nhiều; Chảy nước mũi mủ máu, viêm loét niêm mạc mũi; Hạch cổ, hạch góc hàm to, cổ bạnh to tạo hình ảnh “cổ trâu”; Họng đỏ, màng giả trắng xám, ánh vàng, nhẵn bóng, dính chặt vào amidan, họng, lan rất nhanh, bóc khó, gây chảy máu và làm giả mạc lan nhanh hơn, giả mạc này không tan khi cho vào nước.
Bạch hầu hô hấp có các thể bệnh: Bạch hầu họng, bạch hầu thanh quản, bạch hầu mũi, bạch hầu ác tính.
Ngoài đường hô hấp, bệnh bạch hầu có thể thấy bệnh trên da, kết mạc, niêm mạc sinh dục – tiết niệu, hậu môn, ống tai.
Cũng theo BS Bùi Thu Phương, bệnh bạch hầu có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như tắc nghẽn đường hô hấp, viêm cơ tim, viêm dây thần kinh ngoại biên, viêm thận, viêm phổi, xuất huyết giảm tiểu cầu…
Đây là một bệnh cấp cứu nên cần nhập viện ngay để điều trị và cách ly càng sớm càng tốt. Việc điều trị cần đảm bảo các nguyên tắc như: cách ly trong 10-14 ngày, nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường; kháng sinh diệt khuẩn; thuốc trung hòa độc tố càng sớm càng tốt; phát hiện sớm các biến chứng, xử lý kịp thời; chống tái phát và bội nhiễm; dinh dưỡng đầy đủ, nếu khó nuốt phải ăn bằng sonde dạ dày
Phòng bệnh bạch hầu (nhất là khi có dịch)?
Phát hiện sớm, cách ly kịp thời và điều trị triệt để; Người tiếp xúc cần được theo dõi sát trong 7 ngày, cấy dịch họng; Người lành mang trùng nên dùng kháng sinh uống dự phòng (erythromycin) trong 10 ngày, khám lại hàng ngày.
Tiêm chủng phòng bệnh đầy đủ theo chương trình tiêm chủng mở rộng. Tiêm phòng lúc trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi, 3 lần cách nhau 30 ngày. Tiêm nhắc lại lúc trẻ 18-24 tháng tuổi, 4-6 tuổi và sau mỗi 10 năm.
Trước đó, theo thông tin từ hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm, trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã ghi nhận trường hợp bệnh nhân tử vong do bệnh bạch hầu và trường hợp mắc bệnh tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang có tiếp xúc gần với trường hợp tử vong trên.
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Nghệ An đã xác định được 119 người có tiếp xúc với nữ bệnh nhân tử vong do bạch hầu.
Báo cáo của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (CDC) tỉnh Bắc Giang, trường hợp dương tính với bạch hầu là M.T.B, 18 tuổi, tạm trú huyện Hiệp Hòa, thường trú tại xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
Ngày 25 – 28.6, M.T.B. và M.T.S. về Nghệ An thi tốt nghiệp THPT, ở cùng phòng với một người mắc bệnh bạch hầu.
Khi quay lại Bắc Giang, B và S đau họng, cùng lúc đó cả hai biết người bạn cùng phòng ở Nghệ An trước đây đã mất vì bạch hầu nên tự mua thuốc kháng sinh uống.
B làm xét nghiệm và có kết quả dương tính với bạch hầu. Nữ sinh cũng được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương (Hà Nội) để điều trị. Còn S và các trường hợp tiếp xúc gần với ca bệnh đã được cơ quan chuyên môn huyện Hiệp Hòa thu dung và đưa vào khu vực cách ly.