“Nếu dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) được thông qua, với lộ trình tăng thuế cao trong thời gian ngắn sẽ tạo động lực cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh rượu, bia bất hợp pháp tăng cường đưa các sản phẩm này ra thị trường tiêu thụ. Bởi khi đó, mức chênh lệch giá giữa rượu, bia hợp pháp và bất hợp pháp sẽ lớn. Khi giá thành rượu, bia hợp pháp tăng cao, người tiêu dùng sẽ lựa chọn tìm mua sản phẩm bất hợp pháp có giá thấp hơn.
Rượu, bia hợp pháp có mức giá cao hơn do phải tuân thủ nhiều quy định của pháp luật như Luật Phòng, chống tác hại rượu, bia; các loại thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp; Luật Quảng cáo; Luật Thương mại; Luật Bảo vệ môi trường; Luật An toàn thực phẩm, Luật Chất lượng hàng hóa… Hơn nữa, khung pháp lý đối với rượu, bia hợp pháp quá khắt khe do bị hạn chế về cung cấp thông tin cho người tiêu dùng, quảng cáo, tiếp thị, thuế cao, nhiều chi phí tuân thủ các quy định quản lý liên quan.
Ngược lại, rượu, bia bất hợp pháp không phải tuân thủ những quy định trên, không phải đóng thuế, không lo bảo vệ môi trường. Do nhiều người dân thu nhập thấp, nhận thức kém, thông tin lại không rõ ràng, hấp dẫn bởi quảng cáo, xu hướng sính hàng ngoại… tạo ra lực cầu lớn đối với rượu, bia lậu. Đáng lưu ý, rượu, bia bất hợp pháp làm ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp hợp pháp, tổn thất kinh tế, thất thu ngân sách, tăng chi phí cơ quan hành pháp; đồng thời, gia tăng nguồn cung sản phẩm bất hợp pháp, thúc đẩy người tiêu dùng sử dụng; tạo động lực để tội phạm buôn lậu phát triển, gia tăng tội phạm. Những nguyên nhân trên dẫn đến sự chênh lệch giá quá cao giữa sản phẩm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong khi đó, thực thi pháp luật còn yếu, lực lượng kiểm tra giám sát còn mỏng và thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
Để quản lý thị trường với mặt hàng rượu, bia, lực lượng quản lý thị trường cần chủ động phối hợp với các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng liên quan triển khai các biện pháp để phát hiện, làm rõ việc nhập khẩu bia, rượu nhập lậu; sản xuất, kinh doanh bia, rượu giả, kém chất lượng trên thị trường. Từ đó, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng nhập lậu theo quy định của pháp luật.
Để hạn chế tình trạng tiêu thụ rượu, bia bất hợp pháp trên thị trường, cần cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng đề xuất tăng thuế tiêu thụ đặc biệt. Đồng thời, tuyên truyền, vận động người dân có ý thức khi sử dụng sản phẩm rượu, bia, lựa chọn những sản phẩm đảm bảo về an toàn thực phẩm. Tăng cường quản lý đối với rượu, bia sản xuất thủ công, hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Huy động nguồn lực và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính trong việc trao đổi thông tin và kiểm tra, kiểm soát ngăn chặn việc buôn lậu, vận chuyển, kinh doanh hàng hóa nhập lậu, trong đó có sản phẩm rượu, bia. Ngoài ra, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng không tham gia buôn lậu, không tiếp tay cho buôn lậu…”.
“Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng, đóng vai trò tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và là công cụ giúp Nhà nước điều tiết hành vi người tiêu dùng. Sắc thuế này có tác động làm thay đổi hành vi người tiêu dùng không? Tôi cho là không, vì tăng thuế suốt bao nhiêu năm nhưng lượng tiêu thụ không giảm.
Thống kê giai đoạn 2003 – 2016, dựa trên số liệu nghiên cứu, mức tiêu thụ bia, rượu bình quân đầu người tăng lên gấp hơn 2 lần. Cụ thể, tiêu thụ bia, rượu bình quân quy đổi lít cồn nguyên chất/người (trên 15 tuổi) từ mức 3,8 lít/người/năm trong giai đoạn 2003-2005 tăng lên 6,6 lít/người/năm trong giai đoạn 2008 – 2010, đến năm 2016 tăng lên tới 8,3 lít/người/năm. Hành vi lạm dụng rượu, bia tăng từ 1,4% lên 11,4%, tương ứng tăng gấp 10 lần. Trong thời gian này, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt tăng, số thu thuế cũng tăng lên rất nhiều. Trong đó, phần lớn thuế tiêu thụ đặc biệt đến từ bia, còn rượu không đáng kể, tỷ trọng thuế tiêu thụ đặc biệt của bia so với tổng thu thuế tiêu thụ đặc biệt cũng thay đổi, tăng từ 31% (năm 2018) lên 42,5% (năm 2022).
Thay vào đó, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt lại thay đổi hành vi người tiêu dùng nhiều hơn chính sách thuế. Do đó, đề xuất của tôi là nên kéo dài các biện pháp hành chính để hành vi cải thiện hơn.
Trên thực tiễn, nếu tăng mạnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt thì doanh nghiệp rượu, bia, nước giải khát sẽ không thể tồn tại, nền kinh tế Việt Nam cũng không chịu nổi cú sốc quá lớn. Bên cạnh đó nên tiếp tục duy trì thuế tương đối, chưa xét đến việc áp thuế hỗn hợp hay thuế tuyệt đối. Quan điểm của tôi là hội nhập nhưng không hòa tan, chúng ta tiếp thu cái hay của thế giới nhưng cần vận dụng một cách thích hợp.
Về đề xuất đánh thuế với đồ uống có đường vì gây ảnh hưởng sức khỏe, vậy tại sao không đánh trực tiếp vào đường? Có thể đánh thuế với mặt hàng này, song phải có những nghiên cứu kỹ lưỡng, cơ sở khoa học từ Bộ Y tế và các đơn vị để xem có tác động gây béo phì hay hại cho sức khỏe hay không”.
“Ngành du lịch là ngành chịu tác động nặng nề nhất bởi Covid-19. Trong giai đoạn 2020-2021, hơn 90% doanh nghiệp lữ hành phải đóng cửa, các cơ sở lưu trú phải hoạt động cầm chừng, nhiều doanh nghiệp phải rao bán, cơ sở vật chất xuống cấp, nhân lực bị cắt giảm từ 40-60% tại các cơ sở lưu trú. Nhận thức được khó khăn của ngành du lịch, Chính phủ đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ và thúc đẩy ngành phát triển nhanh chóng và bền vững. Chẳng hạn, Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 18/5/2023 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững yêu cầu Bộ Công Thương điều chỉnh giá điện cho cơ sở lưu trú ngang bằng cơ sở sản xuất kinh doanh ngay trong năm 2024.
Mặc dù số liệu thống kê cho thấy số lượng du lịch quốc tế có chiều hướng tăng nhưng ngành khách sạn vẫn gặp muôn vàn khó khăn. Năm nay, giá vé máy bay tăng rất cao nên xu hướng của khách Việt Nam là ưu tiên ra nước ngoài, tác động đến hoạt động kinh doanh của các cơ sở lưu trú. So với năm 2019, giá phòng chỉ bằng 20-30% và công suất phòng chỉ đạt 40-45%.
Hiệp hội có những kiến nghị để giảm bớt các khó khăn cho các cơ sở lưu trú như: vay vốn ưu đãi để đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực. Sau dịch Covid-19, số lượng nhân lực giảm rất nhiều và chưa thể khắc phục hoàn toàn. Đến nay, tỷ lệ lao động trên số phòng chỉ đạt được 0,6, trong khi con số này trước dịch là 0,8-0,9.
Dịch vụ ăn uống là một trong số những dịch vụ bổ sung trong khách sạn, doanh thu của dịch vụ này chiếm 30% tổng doanh thu. Thời gian qua, để thu hút khách, các cơ sở lưu trú phải giảm giá phòng, nếu tiếp tục chịu thêm thuế tiêu thụ đặc biệt với các loại đồ uống trong dịch vụ ăn uống của khách sạn thì doanh thu khách sạn sẽ chịu nhiều tổn thất. Hiện, tổng số cơ lưu trú là 38 nghìn với 780 nghìn phòng, chiếm hơn 50% là những khách sạn có nhà hàng. Như vậy, khi tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt lên sản phẩm đồ uống có cồn sẽ tác động lớn lên các khách sạn này. Do đó, tôi cho rằng không nên áp dụng tăng sắc thuế này ngay trong năm 2026, mà nên giãn lộ trình để doanh nghiệp kịp phục hồi”.
“Với mặt hàng rượu, bia, việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp. Chính sách cần đánh giá thấu đáo tác động đến kinh tế – xã hội và hệ lụy không mong muốn khi chính sách đưa ra.
Việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia cần đảm bảo ba mục tiêu. Thứ nhất, điều tiết tiêu dùng nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của đồ uống có cồn đến sức khỏe con người. Bộ Tài chính cho rằng mức thuế hiện tiêu thụ đặc biệt hiện tại của rượu, bia còn thấp, chưa đủ tác động hạn chế tiêu dùng hoặc điều tiết thu nhập người sử dụng có thu nhập cao. Tuy nhiên, thống kê từ năm 2005 – 2015 cho thấy mặc dù thuế tiêu thụ đặc biệt tăng gấp đôi, tỷ lệ lạm dụng rượu, bia trên tổng dân số vẫn tăng gấp 10 lần. Bên cạnh đó, dù các doanh nghiệp không tăng giá bán nhưng sản lượng tiêu thụ rượu, bia lại giảm mạnh.
Thứ hai, đảm bảo nguồn thu ngân sách bền vững. Việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt tác động đến thu ngân sách theo hai hướng, có thể tăng thu ngân sách do mức thuế cao hơn nhưng cũng có thể làm giảm thu do nhiều nguyên nhân. (1) giảm thu từ thuế xuất nhập khẩu do nhu cầu giảm dẫn đến giảm lượng nhập khẩu.
(2) khi tiêu dùng giảm làm giảm thu thuế giá trị gia tăng. (3) do sản lượng giảm, lợi nhuận giảm nên thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giảm. Do đó, Bộ Tài chính cần tính toán cụ thể tác động của tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với thu ngân sách, phải tính đúng, tính đủ toàn bộ các nguồn. Đây là một bài toán khó.
Thứ ba, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Chúng ta thấy rằng, dù chính sách thuế là như nhau nhưng hiện chỉ thu được thuế từ các sản phẩm chính thức và thất thu trong khu vực sản xuất phi chính thức. Các chính sách thuế đang bỏ ngỏ những cơ sở sản xuất chưa đăng ký, người dân thì lại dễ dàng mua được sản phẩm bất hợp pháp với giá rất cạnh tranh. Theo tính toán của các nhà kinh doanh rượu, trong giá 1 lít rượu bán ra, có đến 2/3 là thuế, nên rượu phi chính thức bán giá rất thấp nhưng lợi nhuận vẫn rất cao.
Khả năng quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt với sản phẩm rượu, bia phi chính thức kém sẽ tạo ra sự thiếu công bằng cho người nộp thuế. Hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng… gia tăng gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, gia tăng bệnh tật và kéo theo chi phí y tế rất lớn.
Tôi cho rằng nên lùi lộ trình, bắt đầu từ năm 2027, tăng 5%/lần cách nhau 2 năm và dừng lại ở mức 80% để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong ngành phục hồi, phát triển ổn định trở lại. Đồng thời, rà soát công tác thực thi pháp luật về quản lý rượu, bia phi chính thức, kết hợp đồng bộ các giải pháp để thực hiện mục tiêu điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt”.
“Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm Bộ Tài chính là sử dụng rượu, bia có trách nhiệm phải được chú trọng và đề cao trong các hoạt động của doanh nghiệp. Chúng tôi cũng ủng hộ quyết định của Chính phủ trong việc duy trì phương pháp tính thuế tương đối. Khi các bên hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau sẽ thấy những triển vọng tích cực trong tương lai, cũng như thúc đẩy sự phát triển sôi động của thị trường.
Về đề xuất tăng thuế trong dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), tôi cho rằng chắc chắn tác động đến cung – cầu và toàn bộ sản lượng tiêu thụ, chính sách tăng thuế rất nhanh, trong thời gian ngắn và tăng liên tục trong những năm tiếp theo đến năm 2030 với mức thuế lên đến 90-100% thực sự là cú tăng sốc cho doanh nghiệp. Sau đại dịch Covid-19, doanh nghiệp lại đối mặt với các biến động lớn trên thế giới dẫn tới gián đoạn chuỗi cung ứng, giá nguyên vật liệu tăng cao, nền kinh tế suy yếu khiến sức mua suy giảm. Thêm vào đó, với việc thực thi quyết liệt Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông… đã ảnh hưởng tới tiêu dùng và thay đổi thói quen tiêu dùng của người Việt. Những tác động này khiến doanh nghiệp ngành đồ uống đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Hơn nữa, tại thời điểm này doanh nghiệp không nhìn thấy triển vọng phục hồi nhanh chóng và sáng sủa hơn những năm tới. Vì vậy, việc tăng thuế khiến doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thực sự rất khó khăn, đối diện với rủi ro phải đóng cửa. Điều này gây lãng phí lớn đối với nền kinh tế, gây tổn thất lớn về công ăn việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội.
Tôi cho rằng, việc tăng thuế ở bất kỳ quốc gia nào cũng hướng tới mục tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tốc độ tăng và mức tăng nên nhắc ở mức hợp lý, đảm bảo lợi ích của Nhà nước và doanh nghiệp, người tiêu dùng, cũng như duy trì được nguồn thu bền vững”.
“Tôi đề nghị chưa bổ sung nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào nhóm đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, bởi thực tế chưa có nghiên cứu, đánh giá đầy đủ và toàn diện tác động của sắc thuế đối với các đối tượng trực tiếp và gián tiếp về mặt kinh tế, xã hội. Đây là ý kiến nhất quán của ngành nước giải khát gửi tới bộ, ngành liên quan trong các văn bản gửi tới góp ý về dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi).
Trong dự thảo Luật hiện tại, việc căn cứ theo Tiêu chuẩn Việt Nam để xác định đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định tại điểm L khoản 1 Điều 2 của dự thảo Luật là chưa đầy đủ và toàn diện, vì Tiêu chuẩn Việt Nam không phải là cơ sở trong công tác xây dựng pháp luật. Trong khi đó, Tiêu chuẩn Việt Nam đang bao gồm cả các đồ uống có lợi cho sức khỏe, nước uống thể thao dự kiến bị áp thuế, trong khi đó, các loại đồ uống và thực phẩm khác chứa lượng đường thậm chí còn cao hơn lại không thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Điều này dẫn đến việc phân biệt đối xử và không công bằng trong việc xây dựng các quy định về pháp luật của Nhà nước.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), lượng đường tự do nạp vào cơ thể hàng ngày được phép ở mức 5% tổng số năng lượng nạp vào (tương đương 25g/ngày). Cũng theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) và báo cáo của Nielsen tại Việt Nam, lượng đường tự do từ đồ uống có đường chỉ chiếm khoảng 1,1% tổng số năng lượng được đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống. Nếu có sự lạm dụng đường trong khẩu phần ăn hàng ngày của người Việt Nam thì phần rất lớn là từ các nguồn thực phẩm có chứa đường”.
VnEconomy 11/08/2024 22:00
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2024 phát hành ngày 12/08/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
Nguồn tin: https://vneconomy.vn/luong-truoc-tac-dong-cua-viec-sua-doi-thue-tieu-thu-dac-biet-voi-nganh-do-uong.htm