Tây Nguyên có điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai cho phát triển nông nghiệp quy mô lớn; nhiều tiềm năng về năng lượng tái tạo. Đây cũng là vùng có vị trí quan trọng về môi trường sinh thái, đầu nguồn sinh thủy của các con sông lớn, diện tích rừng lớn, tài nguyên du lịch đa dạng gắn với thiên nhiên và văn hóa đặc sắc.
CẦN CƠ CHẾ RIÊNG
Quy hoạch vùng Tây Nguyên phải chỉ rõ giải pháp mang tính đột phá, kết hợp tiềm năng, lợi thế với xu thế thời đại để Tây Nguyên ‘thức giấc’ với giá trị mới, theo kịp vùng khác; đồng thời gìn giữ, bảo tồn những tài sản vô giá, trường tồn.
Đây là một trong những nội dung được Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chia sẻ tại phiên họp Hội đồng thẩm định Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, diễn ra chiều 18/12/2023.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ kế hoạch và Đầu tư tiếp thu tối đa, nghiêm túc các ý kiến tại phiên họp để hoàn thiện quy hoạch.
“Quy hoạch vùng Tây Nguyên cần tiếp cận bài bản, tổng thể, toàn diện và hiểu biết sâu sắc những giá trị độc đáo, “giàu tiềm năng song dễ tổn thương”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, ưu tiên khoanh định những giá trị độc đáo của khí hậu, thiên nhiên, đa dạng sinh học, địa chất, nguồn nước, văn hóa… để bảo tồn, giữ gìn và hình thành giá trị tài nguyên vô giá, trở thành nguồn lực phát triển độc đáo, nâng cao đời sống của người dân nhưng không “phát triển nóng”.
“Mọi tuyến đường phải giảm tối đa tác động tới thiên nhiên,” Phó Thủ tướng nói.
Các dự án, chương trình ưu tiên trong quy hoạch phải có tiêu chí rõ ràng, mang tính đột phá, tập trung vào các sản phẩm của vùng, mang tính chất định hình Tây Nguyên trong tương lai phục hồi, có nền kinh tế xanh, phát triển bền vững…
Đồng thời, Tây Nguyên cần cơ chế, chính sách riêng để tạo chuyển biến căn bản trong quản lý đất đai, nguồn nước, giáo dục, y tế, thúc đẩy hạ tầng số…
Một số vấn đề trọng tâm cần giải quyết trong quy hoạch vùng Tây Nguyên là hoàn thiện hạ tầng kết nối trong và ngoài vùng; cơ chế quản lý khai thác tài nguyên, phối hợp liên ngành; mô hình và phương án tổ chức không gian phù hợp với phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện phúc lợi xã hội…
3 CỰC TĂNG TRƯỞNG
Theo quy hoạch, kịch bản tốc độ tăng trưởng vùng Tây Nguyên giai đoạn 2021-2030 trung bình 7,5%/năm, thu nhập bình quân khoảng 130 triệu đồng/người/năm. Tây Nguyên phát triển dựa trên kinh tế xanh, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ưu tiên phát triển bền vững công nghiệp khai thác, chế biến bauxite, cơ khí phục vụ nông nghiệp, thủy điện, năng lượng tái tạo… Bảo vệ, duy trì hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và đa dạng sinh học, bảo đảm an ninh nguồn nước.
Tại phiên họp, một số đại biểu cho rằng, quy hoạch vùng Tây Nguyên cần xác định được động lực tăng trưởng mới nhằm thoát khỏi tình trạng của “một vùng trũng”…, giải quyết hài hòa mối quan hệ đất-nước-rừng trong bảo tồn hệ sinh thái và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…, lấy chiến lược phát triển du lịch làm trục xuyên suốt trong bảo tồn, phát huy giá trị môi trường, hệ sinh thái, bảo tồn giá trị văn hóa các dân tộc…
Trước đó, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chủ trì Hội nghị điều phối vùng Tây Nguyên chuyên đề “Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” (ngày 30/11/2023), đã xác định quy hoạch vùng Tây Nguyên định hướng tổ chức không gian phát triển gồm: 3 cực tăng trưởng – 3 tiểu vùng – 5 hành lang kinh tế nhằm thúc đẩy liên kết nội vùng, liên vùng, liên kết quốc tế.
Trong đó, 3 cực phát triển gồm: TP. Pleiku, TP. Buôn Ma Thuột và TP. Đà Lạt; 3 tiểu vùng gồm: Bắc Tây Nguyên (Kon Tum và Gia Lai), Trung Tây Nguyên (Đắk Lắk), Nam Tây Nguyên (Đắk Nông và Lâm Đồng); 5 hành lang kinh tế gồm: phía Đông Tây, Bờ Y-Pleiku-Quy Nhơn, Mundulkiri-Đắk Lắk-Phú Yên, dọc cao tốc Buôn Ma Thuột-Khánh Hòa, dọc cao tốc Dầu Giây-Đà Lạt-Nha Trang, Bu Prăng-Gia Nghĩa-Bảo Lộc-Bình Thuận.
Mặt khác, quy hoạch vùng hướng tới thúc đẩy hình thành các trung tâm kinh tế tổng hợp, chuyên ngành của vùng theo lợi thế và vị thế để trở thành các cực tăng trưởng; ưu tiên bố trí ổn định các điểm dân cư của đồng bào dân tộc thiểu số, phù hợp với tập quán và phương thức sản xuất mới.
Về hạ tầng, kết nối đồng bộ, trong đó, hạ tầng số, hạ tầng giao thông là các nền tảng quan trọng thúc đẩy Tây Nguyên đến với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo tồn các vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài và sinh cảnh, lịch sử cảnh quan; từng bước thay thế nguồn nước ngầm bằng nguồn nước mặt. Nguồn nước ngầm cũng như các nhà máy sử dụng nước ngầm sẽ được chuyển đổi thành nguồn dự trữ để tăng an toàn cấp nước.
Nguồn tin: https://vneconomy.vn/can-dot-pha-trong-quy-hoach-vung-tay-nguyen.htm