Ngân hàng Nhà nước vừa có báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2022; tình hình triển khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và hoạt động ngân hàng những tháng đầu năm 2023 gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.
Theo đó, tính đến cuối năm 2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống ở mức 2%/tổng dư nợ. Tuy nhiên đến cuối tháng 2/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 2,91% (tăng so với mức 2,46% vào cuối năm 2016; mức 1,49% vào cuối năm 2021 và mức 2 % vào cuối năm 2022).
Trong tháng 2/2023, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng xử lý được 21,3 ngàn tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, xử lý nợ xấu chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sử dụng dự phòng rủi ro (chiếm tỷ trọng 41% tổng nợ xấu xử lý) và khách hàng trả nợ (chiếm 48,8% tổng nợ xấu xử lý).
Ngân hàng Nhà nước nhận thấy có một số khoản chưa phải là nợ xấu theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng có nguy cơ chuyển nợ xấu (như các khoản nợ được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ, các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái…).
Bên cạnh việc xử lý nợ xấu nội bảng, kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cũng đạt được kết quả tích cực. Lũy kế từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đến cuối tháng 1/2023, toàn hệ thống đã xử lý được 416 ngàn tỷ đồng nợ xấu.
Cụ thể, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết 42 đạt 211,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,9% tổng nợ xấu đã xử lý); xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 122,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 29,3% tổng nợ xấu đã xử lý); xử lý các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 82,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 19,7%).
Cũng tính đến thời điểm cuối tháng 1/2023, các tổ chức tín dụng đã sử dụng khoảng 223,5 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết 42 và bán nợ xấu cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt đạt 40,5 nghìn tỷ đồng.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng thì tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3% nhưng qua rà soát, đánh giá, Ngân hàng Nhà nước nhận thấy có một số khoản chưa phải là nợ xấu theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng có nguy cơ chuyển nợ xấu (như các khoản nợ được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ, các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái…).
Do đó, Ngân hàng Nhà nước cho rằng cần ghi nhận những khoản này để có giải pháp quản lý, xử lý nhằm ngăn ngừa nguy cơ chuyển nợ xấu trong tương lai. Trên nguyên tắc đó, Ngân hàng Nhà nước xác định tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2/2023 ước chiếm tỷ lệ 5% so với tổng dư nợ.
Ngân hàng Nhà nước cho biết bên cạnh việc xử lý nợ xấu, trong năm 2023, Ngân hàng Nhà nước định hướng dư nợ tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro… để hạn chế nợ xấu mới phát sinh.
Ngân hàng Nhà nước đã làm việc trực tiếp với một số tổ chức tín dụng để nắm rõ thực trạng chất lượng tín dụng, kế hoạch và lộ trình xử lý nợ xấu, cấp tín dụng đối với một số lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán, dự án BOT, BT giao thông, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp…
Trên cơ sở đó, chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và yêu cầu có lộ trình giảm dần tín dụng trung, dài hạn, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản.
Ngân hàng Nhà nước xác định tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2/2023 ước chiếm tỷ lệ 5% so với tổng dư nợ.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng cường phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro tín dụng; tích cực, chủ động và có biện pháp kiểm soát việc triển khai thực hiện xử lý nợ xấu, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật nói chung, Nghị quyết 42 nói riêng.
Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thu hồi nợ xấu, xử lý tài sản nhằm thu hồi tối đa giá trị tài sản đảm bảo và các khoản nợ xấu.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, tăng cường công tác thanh tra, giám sát, cơ cấu lại và xử lý nợ xấu nhằm kiểm soát, hạn chế nợ xấu mới phát sinh và nâng cao chất lượng tín dụng. Đưa nội dung thanh tra về tình hình nợ xấu, xử lý nợ xấu vào kế hoạch thanh tra chuyên ngành đối với các cuộc thanh tra pháp nhân định kỳ hàng năm.