Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp vừa phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm (giai đoạn 2021 – 2025) của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR).
Theo đó, trong giai đoạn 5 năm kể trên, tổng doanh thu của VNR đạt gần 40.000 tỷ đồng, nhưng vẫn lỗ luỹ kế trước thuế trên 860 tỷ đồng.
Trong đó, giai đoạn 2021-2022, VNR lỗ luỹ kế gần 1.200 tỷ đồng. Giai đoạn 2023-2025 sẽ thoát lỗ và có lãi mục tiêu khoảng 322 tỷ đồng, trung bình lãi hơn 100 tỷ đồng/năm.
Công ty mẹ – VNR, cả giai đoạn 5 năm dự kiến vẫn lỗ luỹ kế trước thuế hơn 1.200 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2021 – 2022 lỗ 1.250 tỷ đồng, giai đoạn 2023 – 2025 thoát lỗ và có lãi 13 tỷ đồng (bình quân mỗi năm lãi khoảng 4,3 tỷ đồng).
Giai đoạn 2021-2022, VNR vẫn chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, dẫn tới lỗ liên tiếp do nhiều thời điểm phải dừng chạy tàu khách .
Về đầu tư, giai đoạn 2021 – 2025, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho dự án nhóm A, B toàn tổng công ty khoảng 2.590 tỷ đồng.
Để đạt được mục tiêu trên, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp giao VNR chủ động điều hành hoạt động chạy tàu phù hợp với nhu cầu thị trường, đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh; chủ trọng mở rộng thị trường tới các thị xã, thị trấn và các hình thức hợp tác để thu hút luồng khách người nước ngoài; điều hành giá cước linh hoạt, chuyển đổi số…
Đặc biệt, VNR được yêu cầu tăng sản lượng hàng hoá liên vận quốc tế đường sắt đến các địa phương của Trung Quốc và đi các nước thứ 3; duy trì và thúc đẩy lượng hàng xuất khẩu đường sắt sang Nga, châu Âu; Từng bước chuyển hướng tổ chức phân phối các nguồn hàng từ kho, ga đến các đại lý, siêu thị, cửa hàng tiện ích… nâng cao giá trị và hiệu quả trong chuỗi logistics.
Thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển, nghiên cứu ứng dụng, làm chủ công nghệ tiên tiến để chế tạo đầu máy, toa tàu, đoàn tàu (DMU, EMU) có tốc độ 120km/h và các sản phẩm cơ khí đường sắt.
Giai đoạn từ nay tới năm 2030, VNR được giao tập trung phát triển công nghiệp chế tạo, đóng mới toa xe cung cấp cho tiêu dùng trong nước, hướng tới xuất khẩu sang các nước trong khu vực. Liên doanh với các đối tác nước ngoài thiết kế, chế tạo giá chuyển hướng toa xe hàng.
Nghiên cứu phát triển các loại toa tàu có kết cấu tiên tiến, hiện đại với mức tỷ lệ nội địa hóa lên đến 100% đối với toa xe hàng và trên 80% đối với toa xe khách. Nghiên cứu phát triển các loại hình toa tàu phục vụ đường sắt đô thị (EMU).
Ngoài ra, ngành cần nghiên cứu và áp dụng công nghệ điện khí hóa để xây dựng các tuyến đường sắt điện khí hóa; Nghiên cứu kỹ thuật phát triển hệ thống đường sắt tốc độ cao…
Trước đó, theo dự kiến của Chính phủ, trong tương lai, khi đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được đầu tư đưa vào khai thác, VNR sẽ được giao quản lý, vận hành, khai thác.
Nguồn tin: https://cafef.vn/tong-cong-ty-duong-sat-du-kien-lai-binh-quan-100-ty-dong-moi-nam-188240107182927835.chn