Tôi có cô bạn nghiện mua sắm online. Điện thoại của cô cài đủ mọi ứng dụng của các sàn thương mại điện tử lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam.
Cô có thể ngày dạo mấy bận qua các gian hàng, ngắm nghía, so sánh và canh giá cho tới khi chớp được thời cơ, mua với giá tốt nhất.
Hôm qua, khi tôi chia sẻ trên trang cá nhân rằng tôi không đồng tình với dự thảo của Bộ Tài chính về việc miễn thuế nhập khẩu cho các giao dịch qua sàn thương mại điện tử có giá trị theo từng đơn hàng dưới 2 triệu đồng trở xuống, cô nhắn tin cự nự: “Nhưng như thế, người tiêu dùng như em sẽ được lợi, có thể mua hàng với giá rẻ”.
Đây là nội dung được chú ý nhất tại Dự thảo Nghị định quy định về quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử, đang được lấy ý kiến đóng góp. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ Tài chính đề xuất nới lỏng các quy định về thuế và điều kiện kinh doanh cho hàng nhập khẩu qua sàn online. Lợi ích đầu tiên, như bạn tôi sớm nhìn ra, là tạo cơ hội cho người tiêu dùng mua sản phẩm với giá phải chăng, kích cầu mua sắm, mở rộng tệp khách hàng, tạo động lực phát triển cho thị trường thương mại điện tử. Việc miễn thuế cho các đơn hàng nhỏ cũng giúp loại bỏ chi phí xử lý thuế, tiết kiệm thời gian và nguồn lực hải quan, giảm áp lực hành chính.
Tuy nhiên, lợi bất cập hại. Là người đã tham gia vào lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam từ những ngày đầu tiên, tôi nhìn thấy có ít nhất bốn đối tượng sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đề xuất này.
Doanh nghiệp nội địa, bắt đầu từ lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, sẽ sớm “ngấm đòn” và lần lượt bị loại khỏi cuộc cạnh tranh không cân sức ngay trên sân nhà. Nếu chính sách này được áp dụng, hàng hóa giá rẻ từ nước ngoài sẽ tràn vào thị trường nội địa bởi các lợi thế: Miễn hoặc bớt tần suất kiểm tra chuyên ngành với sản phẩm có điều kiện; Miễn thuế nhập khẩu; Giảm khâu trung gian giúp tiết kiệm thời gian và chi phí; Không cần thực hiện đóng thuế trên phần lợi nhuận thu được tại thị trường Việt Nam. Những lợi thế lớn này sẽ giúp họ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường nội địa, khiến các nhà sản xuất trong nước, các đơn vị phân phối trung gian phải thu hẹp sản xuất hoặc có biên lợi nhuận ngày càng mỏng.
Các sàn thương mại điện tử trong nước cũng tương tự, dần mất thị trường và cuối cùng bị thâu tóm; khi mà Nghị định 85/2021 về thương mại điện tử yêu cầu doanh nghiệp trong nước tuân thủ hàng chục nghĩa vụ; còn sàn thương mại điện tử xuyên biên giới chỉ cần đáp ứng ba nghĩa vụ.
Các đơn vị cung cấp dịch vụ logistic trung gian cũng không được hưởng lợi do các khâu vận hành chủ yếu được thực hiện tại thị trường nước ngoài. Chỉ có khâu giao hàng cuối cùng với biên lợi nhuận cực thấp được thực hiện tại Việt Nam.
Doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải đối mặt tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh. Tôi lấy ví dụ cho dễ hình dung. Một doanh nghiệp nhập lô hàng trị giá một tỷ đồng từ Trung Quốc về bán tại Việt Nam sẽ phải đóng các loại thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp và hàng loạt chi phí tuân thủ khác, làm giảm biên lợi nhuận hay tính cạnh tranh của sản phẩm. Trong khi đó, cũng lô hàng này, được chia thành nhiều đơn dưới 2 triệu đồng, bán online từ kho hàng ở Trung Quốc tới tay người Việt, chúng sẽ được miễn thuế nhập khẩu.
Thiệt hại của hai đối tượng này dẫn đến mất mát của Nhà nước: mất thị trường, thất thu thuế, doanh nghiệp tư nhân khó lớn mạnh, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước.
Cuối cùng, người tiêu dùng có hẳn được lợi không? Trước mắt là có, nhưng về lâu dài thì không có gì chắc chắn. Người bạn của tôi trong câu chuyện trên nói rằng, mỗi tháng cô chi 4-5 triệu đồng vào các khoản mua sắm online, chủ yếu là hàng tiêu dùng, mỹ phẩm, váy áo. Tôi tính ra, tối đa cô tiết kiệm được 400-500 nghìn đồng so với mua các mặt hàng tương tự sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu chính thức. Nhưng cô sẽ được hưởng các “deal hời” này trong bao lâu? Khi các nhà sản xuất trong nước, nhà phân phối trung gian mất dần lợi thế cạnh tranh, thu hẹp sản xuất thì đơn vị cung cấp xuyên biên giới với lợi thế độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường về sản phẩm và kênh phân phối sẽ tăng giá. Lúc đó người tiêu dùng không còn nhiều lựa chọn.
Nhưng thiệt hại lớn hơn với người tiêu dùng là nguy cơ sử dụng hàng kém chất lượng, thiếu kiểm định. Trong khi hàng nhập khẩu chính thức và hàng sản xuất trong nước phải tuân thủ các điều kiện kinh doanh, đáp ứng các tiêu chuẩn hợp quy, và đảm bảo tiêu chí kiểm định chất lượng sản phẩm… thì nhóm hàng hóa xuyên biên giới giá rẻ được miễn thuế này cũng đồng thời được miễn các nghĩa vụ trên. Tức là người mua có thể sẽ dùng phải hàng kém chất lượng, hàng độc hại, mà nếu để lại hậu quả nghiêm trọng, cũng không biết bắt đền ai, không được tổ chức, đơn vị nào bảo vệ. Không có đại diện thương mại chịu trách nhiệm ở Việt Nam thì cũng như “kẻ không có tóc”, làm sao mà nắm?
Đề xuất này dường như tạo ra chính sách “bảo hộ ngược” về thuế đối với doanh nghiệp trong nước, đi ngược lại xu thế đang diễn ra trên toàn cầu. So sánh với các nước có quy mô thương mại điện tử cao hơn như Indonesia, Thái Lan thì Việt Nam đang có chính sách thoáng hơn nhiều. Thái Lan áp thuế giá trị gia tăng 7% với tất cả gói hàng nhập khẩu có giá dưới 1.500 baht (42 USD). Indonesia giảm ngưỡng miễn thuế nhập khẩu từ mức 100 USD xuống 75 USD và hiện tại là 3 USD. Hàng hóa có giá trị từ 3 USD trở lên phải chịu thuế nhập khẩu tiêu chuẩn 7,5% và thuế VAT 10%. Hàng hóa dưới 3 USD chịu thuế VAT 10%.
Theo Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), năm 2024 ngành thương mại điện tử Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 18-20%, vượt mốc 25 tỷ USD. Thương mại điện tử Việt Nam đã tăng trung bình 26,7%/năm, chiếm khoảng 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng. Dữ liệu của nền tảng Metric cho biết, năm 2024, thị trường chứng kiến sự gia tăng đáng kể của hàng nhập khẩu với hơn 324 triệu sản phẩm được đưa vào Việt Nam, tạo ra 14,2 nghìn tỷ đồng doanh số, tăng trưởng lần lượt gần 38% và 43% so với 2023.
Để bảo vệ doanh nghiệp trong nước nhưng cũng mở cửa thị trường để đón đầu các xu hướng, hội nhập với thế giới, Việt Nam cần các chính sách chống thất thu thuế, đảm bảo thương mại công bằng, không chỉ thuế mà cả các điều kiện kinh doanh.
Trung Quốc – quốc gia dẫn đầu về thương mại điện tử – có thể nơi tham khảo tốt cho Việt Nam về mặt chính sách quản lý đối với lĩnh vực này. Các khu vực CBEC (Thương mại điện tử xuyên biên giới) đang được họ phát triển nhanh chóng. Doanh nghiệp nước ngoài có thể ký gửi hàng hóa vào các khu vực này, chờ thực hiện các thủ tục kiểm tra chuyên ngành với sản phẩm có điều kiện, liên kết với các doanh nghiệp trong nước để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trước khi bán ra. Với cách làm này, họ vừa tạo điều kiện cho người tiêu dùng Trung Quốc tiếp cận hàng nhập khẩu, vừa đảm bảo được tính cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nội địa.
Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng hệ thống thông quan điện tử có khả năng kết nối và đáp ứng năng lực giao dịch lớn; ban hành các quy định chính sách yêu cầu thương nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam phải tuân thủ các trách nhiệm tương tự các doanh nghiệp nội địa, bao gồm cả điều kiện kinh doanh lẫn nghĩa vụ thuế.
Cạnh tranh vốn là động lực của sự phát triển, nhưng cạnh tranh không công bằng sẽ triệt tiêu không chỉ động lực phát triển, mà cả cơ hội sống còn của doanh nghiệp.
Nguyễn Hòa Bình
Nguồn tin: https://vnexpress.net/mien-thue-hang-ben-kia-bien-gioi-4857326.html