Điểm yếu bị lờ đi khiến quần vợt Mỹ rơi vào cảnh trắng tay ở nội dung đơn nam của Grand Slam suốt 22 năm qua.
Jannik Sinner đăng quang ở Australia Mở rộng 2025, đánh dấu lần thứ 60 liên tiếp ngôi vương của Grand Slam thuộc về một tay vợt châu Âu. Chức vô địch major gần nhất ở nội dung đơn nam gọi tên một đại diện ngoài lục địa già là Mỹ Mở rộng 2009 (Juan Martin del Potro, người Argentina).
Với người Mỹ, lần gần nhất họ được mừng một chiếc cup Grand Slam là Mỹ Mở rộng 2003, khi Andy Roddick thắng Juan Carlos Ferrero ở chung kết. Nói cách khác, quần vợt nam của xứ cờ hoa đang trải qua cơn khô hạn danh hiệu Grand Slam kéo dài hơn hai thập kỷ.
Sự tụt dốc của Mỹ là điều kỳ lạ, bởi họ được biết đến như một cường quốc tennis sở hữu bề dày truyền thống và bảng thành tích đồ sộ. Tính từ lúc Kỷ nguyên Mở bắt đầu năm 1968 cho đến thời khắc vinh quang của Roddick năm 2003, chỉ 6 năm người Mỹ vắng bóng trên bảng vàng đơn nam Grand Slam. Trước khi trắng tay 88 giải major gần nhất, họ đã thắng 52 lần trong tổng số 143 sự kiện, đạt tỷ lệ 36%.
Roddick nâng cup vô địch Mỹ Mở rộng tại New York, tháng 9/2003. Ảnh: Reuters
Tất nhiên, sự xuất hiện của Federer, Rafael Nadal hay Novak Djokovic khiến các tay vợt từ khắp nơi, không riêng gì Mỹ, chẳng còn nhiều cơ hội vô địch. Dù vậy, Grand Slam không phải nơi duy nhất mà vấn đề của tennis Mỹ bộc lộ. Điển hình vào tháng 5/2021, họ chạm đáy khi lần đầu tiên trong lịch sử không có tay vợt nào trong top 30 thế giới. Trái ngược ở thời điểm tháng 2/1990, 14 người mang quốc tịch Mỹ nằm trong top 30, trong đó 8 tay vợt trong top 10.
“Lúc đó, rất nhiều nhà vô địch xuất thân từ lò của Bollettieri”, Scott Perelman – người đã dành hơn 30 năm làm công tác huấn luyện trong hệ thống đại học Mỹ – trả lời phỏng vấn Daily Mail (Anh). “Học viện Quần vợt Nick Bollettieri là điểm khởi đầu cho giai đoạn thống trị của người Mỹ”.
Năm 1978, Bollettieri, một cựu lính dù và là sinh viên luật bỏ học với sự nghiệp quần vợt khiêm tốn nhưng đủ giúp có bằng HLV, đã mở một học viện làm thay đổi hoàn toàn nhận thức về tennis. Tầm nhìn của ông là kết hợp những HLV giỏi nhất trên toàn quốc với các tài năng trẻ sáng giá nhất, những người chủ yếu tập luyện ở địa phương. Andre Agassi từng miêu tả học viện này như “trại tập huấn khắc nghiệt”, nhưng hiệu quả.
“Tất cả những người giỏi nhất, từ các tay vợt và HLV, quy tụ ở một địa điểm tập trung, với những trang thiết bị tốt nhất. Một sự pha trộn đầy tinh hoa”, ông Perelman, người gắn bó từ năm 2012 với đội quần vợt của Đại học Florida – nơi đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của tay vợt số 13 thế giới Ben Shelton, nhấn mạnh. “Những tay vợt trẻ hay nhất đều được đưa đến đó. Đã có lúc Agassi, Jim Courier và những sao mai khác tập luyện cùng nhau, sinh hoạt cùng nhau. Họ giúp đỡ và ganh đua lẫn nhau”.
Cố HLV Bollettieri (trái) và cựu tay vợt Agassi. Ảnh: FOX
Dự án của Bollettieri trở thành mảnh đất màu mỡ cho thứ quần vợt mới mẻ, hiện đại, đề cao lối chơi nhanh, với phong cách áp chế đối thủ từ ngay cú đánh đầu tiên. Bên cạnh việc tập trung phát triển cú giao uy lực và thuận tay bóng nặng, các học viên tại đây cũng được khuyến khích đánh bóng xoáy kết hợp với bóng bạt tốc độ cao.
Người Mỹ tìm ra công thức chiến thắng, nhưng rồi các nước khác học hỏi và dần bắt kịp. “Quần vợt toàn cầu hóa hơn, phổ biến hơn khi được đưa vào tranh huy chương ở Olympic 1984 tại Los Angeles”, Kent Kinnear, người đứng đầu mảng quần vợt nam của Hiệp hội Quần vợt Mỹ (USTA), đánh giá. “Kể từ Thế vận hội đó, các quốc gia trên khắp thế giới bắt đầu chú trọng nhiều hơn vào tennis”.
Huyền thoại Bollettieri nhân rộng mô hình của ông. Những học viện tương tự xuất hiện toàn cầu, cho phép các quốc gia chọn lọc và tập trung phát triển những cá nhân xuất sắc. Trong khi tại Mỹ, những học viện khác nổi lên cạnh tranh và trở thành đối thủ. Thay vì tề tựu một nơi như trước, các tay vợt và HLV của Mỹ phân tán mọi nơi, trên khắp đất nước rộng lớn này.
“Chúng tôi có nhiều HLV, chuyên gia hiểu biết với chất lượng giảng dạy rất tốt”, ông Perelman nhận định. “Tuy nhiên, điều này làm mọi thứ trở nên dàn trải hơn, thay vì tất cả được tập hợp với nhau. Việc làm này có hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, cùng thành tích thực tế”.
Theo thời gian, các tay vợt trên thế giới trở nên khỏe hơn, dẻo dai hơn, đồng nghĩa khả năng phòng thủ tốt hơn. Khi đó, phong cách tấn công phủ đầu của người Mỹ sẽ ít hiệu quả hơn. Ông Perelman tin rằng quần vợt Mỹ đã gắn bó với cách làm cũ quá lâu, không còn phù hợp với thực tiễn nữa.
“Chỉ cần giao bóng mạnh và thuận tay tốt là đủ để giành chiến thắng. Đây là phương châm đã tồn tại hàng thập kỷ tại Mỹ”, ông Perelman nói. “Bạn có một thế hệ HLV luôn dạy các tay vợt phải cầm cán kiểu Western nhằm phát lực mạnh nhất. Điều đó đã lạc hậu. Những chi tiết kiểu vậy đã kìm hãm chúng tôi. Ngay từ đầu, chúng tôi quên rằng phải dạy đứa trẻ những điều cơ bản của một tay vợt”.
Sampras, tay vợt Mỹ từng giữ kỷ lục 14 lần vô địch Grand Slam, trước khi bị Federer, Nadal và Djokovic vượt qua. Ảnh: FOX
Sức mạnh của quần vợt Mỹ thời điểm những năm 80, 90 đã góp phần đồng nhất phong cách thi đấu dựa nhiều vào cú giao bóng và thuận tay trên toàn quốc. Những vũ khí này sẽ che giấu điểm yếu khác trên mặt sân cứng. Đây cũng là loại sân chủ yếu tại Mỹ, thay vì sân đất nện – loại sân truyền thống vốn được đánh giá là nơi học quần vợt tốt nhất. Với đặc thù của mặt sân bụi đỏ khi xét về độ nảy bóng, sức bền và cách di chuyển, các tay vợt sẽ phát triển các kỹ năng toàn diện hơn cả.
Vậy tại sao các tay vợt nam Mỹ không thể giành Grand Slam, còn những đồng nghiệp nữ vẫn làm được? Theo ông Perelman, ngoại trừ chị em nhà Williams, thực tế các tay vợt nữ Mỹ cũng không còn giữ được vị thế như xưa.
Một yếu tố khác ảnh hưởng tới các VĐV nam người Mỹ nhiều hơn so với nữ, đó là sự cạnh tranh từ những môn thể thao khác. Ở xứ cờ hoa, một bé gái, với năng khiếu thể thao, vẫn nhìn thấy con đường đầy hấp dẫn và hứa hẹn trong quần vợt, ít nhất về mặt tài chính. Còn với bé trai, tiếng gọi thu hút nhất đến từ môn bóng bầu dục, bóng chày hay bóng rổ.
Bất chấp tất cả những trở ngại, quần vợt Mỹ đang hồi sinh. Năm ngoái, Taylor Fritz lọt vào chung kết Mỹ Mở rộng, trở thành tay vợt chủ nhà đầu tiên đi tới trận đấu cuối cùng của một giải Grand Slam kể từ Roddick ở Wimbledon 2009. Giai đoạn từ năm 2010 đến 2021, chỉ có hai tay vợt Mỹ lọt vào bán kết các sự kiện major. Nhưng kể từ năm 2022 tới nay, con số đó đã tăng lên ba lần.
Fritz tại Mỹ Mở rộng 2024, nơi anh thua Sinner ở chung kết. Ảnh: Reuters
Người Mỹ bắt đầu nhìn thấy một vài tia sáng gần đây, và đó là thành quả của một kế hoạch được ấp ủ hơn một thập kỷ trước. “Khoảng năm 2008-2009, chúng tôi đưa ra triết lý giảng dạy mới và mở rộng ra toàn quốc”, ông Kinnear giải thích. “Điều gì bạn muốn truyền đạt cho những đứa trẻ 11, 12 hay 13 tuổi về quần vợt ngày nay? Bạn muốn chúng mài giũa kỹ năng nào? Chúng tôi không muốn thấy một tay vợt 22 tuổi nhưng không biết bắt vô-lê. Tennis đã phát triển đến mức, nếu có điểm yếu nào dù rất nhỏ, điều đó có thể khiến bạn thất bại”.
Mục tiêu của USTA là mang đến một chương trình vừa cập nhật, vừa thống nhất đến mạng lưới rộng lớn của trường đại học, CLB tư nhân và khu tập luyện địa phương. Ông Kinnear nhấn mạnh USTA muốn trang bị cho các tay vợt trẻ bộ kỹ năng đa dạng và toàn diện trước đòi hỏi ngày càng khốc liệt của tennis hiện đại.
Chính thế hệ được rèn luyện theo phương châm này đang tiến gần đến đỉnh cao. Ông Kinnear là người đào tạo các HLV của những tay vợt sinh năm 1997 và 1998, gồm số bốn thế giới Fritz hay số 10 Tommy Paul. Với Fritz, anh vẫn sở hữu những nét đặc trưng của một tay vợt Mỹ truyền thống với khả năng giao bóng và thuận tay chất lượng. Ngoài ra, cú trái tay, kỹ năng bắt vô-lê và nhất là khả năng di chuyển của Fritz đã vượt xa nhiều đàn anh. Trong khi Paul được Kinnear đánh giá là tay vợt toàn diện, không có khuyết điểm trong cách chơi, nhưng lại chẳng đặc biệt ở một khía cạnh nào.
Hiện Fritz và Paul là hai trong số 11 tay vợt Mỹ giữ vị trí ở top 100 thế giới, với năm người dưới 24 tuổi. Frances Tiafoe, Sebastian Korda, Alex Michelsen và Brandon Nakashima cũng đã lọt top 50 cùng Fritz, Paul và Shelton. Đây là những tín hiệu đầy lạc quan của quần vợt Mỹ.
Sự thay đổi tính cực này như những giọt mưa đầu tiên báo hiệu thời kỳ hạn hán Grand Slam kéo dài 22 năm của người Mỹ có thể sớm kết thúc trong tương lai gần.
Vy Anh
Nguồn tin: https://vnexpress.net/vi-sao-nguoi-my-mat-vi-the-o-grand-slam-4856010.html