Trong căn nhà gỗ lọt thỏm sau tán tre bương trên bản Mông (xã biên giới Mường Cai, huyện Sông Mã, Sơn La), thứ tài sản giá trị nhất là chiếc
tủ lạnh đã rút ổ cắm, rỗng không. Tường nhà nham nhở những miếng giấy dán xé dở, bên cạnh tấm bằng khen học tập xuất sắc của Cảnh. Mạng nhện
giăng đầy bốn góc nhà, bồ hóng đã đóng thành những lớp dày màu đen. Căn nhà không có dấu vết của người lớn.
Cảnh, học sinh lớp 8, thay vai bố, thế chỗ mẹ để chăm bẵm cho hai đứa em – Khánh (5 tuổi) và Dung (3 tuổi). Cậu bé thức dậy từ 5h sáng, chuẩn bị hai bộ quần áo khô cho em gái nhỏ, xếp sách vở cho em trai và đảm bảo chúng được ăn sáng trước khi vào lớp. Kể từ
khi bố đi làm xa, Cảnh trở thành trụ cột cho các em và cả chính mình.
Những đứa trẻ như Cảnh, tuổi chưa 18 nhưng không được sống trọn vẹn trong vòng tay bố mẹ do tác động của di cư, được gọi chung là “những đứa
trẻ bị bỏ lại”, theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). Chúng phải sống xa bố, mẹ, có khi là cả hai trong ít nhất 6 tháng, và được giao cho
người nhà chăm sóc hoặc tự xoay sở.
Thế giới cũng như Việt Nam chưa có thống kê về nhóm trẻ này. Nhưng theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Việt Nam hiện có 6,4 triệu
người di cư, trong đó gần 65% đã có gia đình, đồng nghĩa với lượng lớn trẻ em bị bỏ lại. Trung du và miền núi phía Bắc – nơi hiện có tỷ suất xuất
cư cao thứ hai và phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số – trẻ em vừa phải thích nghi với cuộc sống xa bố mẹ, vừa phải đối diện nguy cơ đứt gãy
giáo dục cao hơn.
Trong khi cha mẹ coi di cư là đầu tư cho tương lai, đối với những đứa trẻ như Cảnh, đó lại là mất mát của hiện tại.
“Người bố” 13 tuổi
Cảnh xa bố lần đầu lúc chưa đầy 2 tuổi, quen với cuộc sống chỉ có bóng mẹ. Nhìn bạn bè có gia đình trọn vẹn, thi thoảng thằng bé thắc mắc:
“Bố cứ đi đâu, sao không ở nhà với mình“.
Năm Cảnh học lớp 2, bố về. Nhưng chưa được nửa năm, bố mẹ bỏ nhau và mẹ bỏ đi, không nói câu chào. Bố đưa mẹ kế về nhà sau đó nửa năm. Từ đây,
cậu bắt đầu đánh số các mẹ: mẹ 1 là mẹ đẻ, mẹ 2 là mẹ bố vừa cưới.
Nỗi lo cơm áo lại cuốn bố xa nhà. Lúc đầu là những chuyến đi ngắn ngày, rồi ngày càng dài hơn. Mỗi lần bố về lại thường khởi đầu cho một cuộc
xung đột. Giữa năm 2023, mẹ 2 cũng đi mất, vội vã như mẹ 1, để lại những đứa trẻ thiếu thốn cả bố lẫn mẹ.
Sau mỗi lần chia ly, hành trình di cư của bố Cảnh lại xa và lâu hơn. Tháng 11/2023, bố đi làm nhà máy ở Hưng Yên, gửi ba đứa con cho bà nội và
chú ở gần đó.
Hồi bố mới đi, nhà mấy lần bị kẻ trộm lẻn vào lấy đi cả gạo và con lợn tiết kiệm mà Cảnh đã nhịn ăn sáng để dành tiền cuối năm mua quần áo.
“Sợ nhất là trộm”, nhưng Cảnh phải tìm cách xoay sở. Cậu đưa gạo xuống gửi nhà chú, tự chia ca nửa tuần sống với chú, nửa còn lại ở nhà để bảo vệ
tài sản.
Bố ít về, thường gửi tiền chú vào giữa tháng để lo liệu cho ba đứa, lúc 500 nghìn, khi 2-3 triệu. Bà nội đi bán thuốc dưới huyện, thường chỉ
về vào cuối tuần. Còn chú cũng bận rộn với công việc phụ bán quán tạp hóa nên phần lớn những đứa trẻ tự chăm nhau.
Cảnh nhiều lần phải hy sinh những buổi học, đặc biệt vào thứ 7, để ở nhà trông em vì trường mầm non nghỉ học. Cậu bé 13 tuổi giải thích không
dám để hai em ở nhà một mình bởi mấy lần cậu vừa rời mắt, hai đứa nhỏ đã rủ nhau đi tắm suối.
“Con sợ các em chẳng may bị nước cuốn trôi, không ai giúp”, Cảnh nói.
Cô giáo chủ nhiệm Phạm Thị Kim Tuyến và ban giám hiệu trường PTDT bán trú THCS Mường Cai nhiều lần tự bỏ chi phí, hoặc kêu gọi nhà hảo tâm hỗ
trợ thực phẩm, quần áo giúp ba anh em. Bạn cùng lớp thỉnh thoảng góp mỗi người 2 nghìn, 5 nghìn chia sẻ với Cảnh. Dù vậy, đây chỉ là những hỗ trợ
tạm thời, ngắt quãng.
Cô Tuyến bắt đầu nhận thấy những dấu hiệu bất ổn của cậu học trò khi mỗi lần nhắc đến gia đình, Cảnh liền gục mặt xuống bàn, òa khóc.
Nghiên cứu về Tác động xã hội của di cư lao động đến người ở lại năm 2022 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho thấy, 57,8% trẻ cảm
thấy buồn, lo lắng vì nhớ bố mẹ, 31,4% vui sướng hơn khi bố mẹ ở nhà. Không chỉ khó khăn hơn trong duy trì việc học, những đứa trẻ bị bỏ lại đối
diện nhiều vấn đề tâm lý.
Những cuộc di cư của người lớn vốn đã khiến con trẻ bơ vơ. Đổ vỡ hậu di cư lại càng khoét sâu vết thương lòng. Người lớn mải miết chạy theo
cuộc đua tìm sinh kế, còn những đứa trẻ tự xoay xở trong những ngôi nhà trống, cố không “đánh rơi” con chữ.
Gia đình “vỡ đôi”
4 tuổi, Thào Thị Hoa Anh lần đầu cảm nhận thế nào là “bị bỏ lại”, khi bố mẹ đưa em trai xuống Quảng Ninh làm việc, để cô bé ở lại với ông
bà nội.
Chị Sồng Thị Cang, 25 tuổi, nhớ mãi câu hỏi thổn thức của con gái khi đó: “Sao bố mẹ thương út mà không thương con, không đưa con đi
cùng”. Câu hỏi ấy đã để lại vết hằn trong lòng người mẹ và cả đứa trẻ, nay đã lên 11.
Năm 2018, vợ chồng Cang rời bản xuống miền xuôi làm công nhân khi cuộc sống quê nhà quá khốn khó. Từ đây, gia đình nhỏ bắt đầu bị chia cắt.
Chuỗi ngày tăng ca tới tối mịt vô tình kéo Cang dần xa cách con gái. Nhiều lần mẹ gọi về, Hoa Anh chỉ im lặng, đáp lại bằng những cái gật
lắc.
Thời gian đầu, hễ nhìn ảnh con gái, Cang lại khóc. “Hai tay làm nhưng cái đầu suy nghĩ đến con”, Cang kể. Nhiều lần, chị toan giục chồng quay
về, nhưng mức lương công nhân 6 triệu đồng mỗi tháng – bằng cả gia đình làm 3 tháng khi ở quê – đã níu chân họ với phố thị.
Sau Covid-19, Quảng Ninh hết việc, hai vợ chồng di cư tiếp xuống Bắc Giang và Hưng Yên. Hoa Anh cũng bắt đầu thích nghi với sự chia xa. Cô bé
thôi hỏi sao bố mẹ không thương con, và học cách biểu lộ tình cảm qua những cuộc gọi đường dài.
“Con nhớ mẹ, mẹ về với con”, cô bé thường xuyên thủ thỉ với mẹ. Mỗi lần nghe vậy, Cang lại thấy đau lòng.
“Mình rất buồn, không nói được câu nào. Mình nhớ con, muốn ở cạnh con, nhưng không biết làm sao, chỉ biết khóc thôi”, chị kể.
Cảm giác thiếu thốn tình thương của Hoa Anh càng nặng nề hơn khi bố mẹ chia tay. Tháng 11/2023, sau khi kết thúc cuộc hôn nhân 10 năm, Cang
dắt theo con gái lớn về nhà ngoại – cách nơi ở cũ hơn 45 km, hai con trai ở lại cùng bố.
Gia đình chính thức “vỡ” đôi.
Từ ngày hai mẹ con chuyển đi, cuộc gọi của bố cũng thưa dần. Hoa Anh thường hỏi bà ngoại: “Tại sao bố không điện về”. Không ít
buổi chiều, cô bé đứng nhìn về hướng nhà cũ – nơi có bố và hai em, oà khóc.
Cuộc sống mới của Hoa Anh và mẹ không dễ dàng. Cô bé phải chuyển trường khi đang học dở lớp 4, nơm nớp lo không có bạn bè, khó theo kịp chương
trình học. “Bao giờ con mới quen thầy cô và các bạn ở đây. Con sợ lắm”, Hoa Anh nhiều lần hỏi mẹ. Nhà cách trường 10 km nên cô bé ở bán
trú, chỉ về nhà vào cuối tuần. Mỗi sáng đầu tuần, Hoa Anh lại níu tay đòi mẹ, không muốn rời đi.
Ba tháng tới trường mới, trong khi Hoa Anh vẫn xoay xở thích nghi với sự thay đổi, thì mẹ một lần nữa quyết định đi làm xa. “Mình không đi thì
ai kiếm tiền nuôi con”, chị Cang giãi bày khi chọn di cư đến đầu kia đất nước.
Trước khi mẹ rời bản, Hoa Anh gom góp tiền ăn sáng, mua tặng mẹ một chiếc vòng cổ và nhẫn, giao hẹn “nếu mẹ không đeo, con không học đâu”. Lần
nào gọi mẹ, con bé cũng nơm nớp lo mẹ có hạnh phúc mới.
“Mẹ đi lấy chồng thì sau này con sẽ gọi người ta như thế nào”, “Phải xem chú đó có thương được con không, con xem được thì mới cho mẹ
lấy” là những câu hỏi thường trực của Hoa Anh với mẹ.
“Ly hôn như trở thành ‘lời nguyền’ với những đôi vợ chồng trẻ di cư”, TS Ngô Thị Thanh Hương, chuyên viên nghiên cứu chính sách của Tổ
chức CARE tại Việt Nam, nhận định.
Bà chia sẻ ở một số địa phương Tây Bắc từng đến khảo sát như Hà Giang, Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La… đại diện chính quyền đều ghi
nhận số vụ ly hôn của người dân tộc thiểu số tăng vọt sau khi đi làm xa về. Phó chủ tịch xã Bản Bo, huyên Tam Đường, Lai Châu từng ước lượng, cứ
3 gia đình có vợ hoặc chồng đi làm ăn xa thì một đôi ly hôn, có khi chỉ sau vài tháng di cư.
Kết quả khảo sát về lao động nữ di cư tại các khu công nghiệp, chế xuất do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam công bố năm 2023 cũng cho thấy, tỷ
lệ ly hôn ở lao động nữ di cư là 10%, cao gấp gần 5 lần so với tỷ lệ 2,1% ở nữ giới nói chung (theo Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 2019).
Với chị Cang, cứ nghĩ đến con, lúc nào cũng thấy có lỗi. Từ khi Hoa Anh học mẫu giáo đến giờ, chị gần như vắng mặt trong các buổi họp phụ
huynh, chỉ cập nhật tình hình qua điện thoại với giáo viên. Ngay cả khi con ốm, chị cũng phải nhờ cậy thầy giáo.
Người mẹ trẻ nhiều lần muốn đưa
con theo, nhưng sợ không lo nổi.
Mái trường – điểm tựa cuối cùng
“Để con ở nhà hay đưa con theo là bài toán tiến thoái lưỡng nan với hầu hết bố mẹ khi quyết định di cư. Cả cha mẹ và con cái đều thiệt thòi”,
TS Đoàn Kim Thắng, chuyên gia An sinh và Công tác xã hội, Viện Xã hội học, nhận định.
Ông phân tích, khi để trẻ ở lại quê nhà, cha mẹ không được gần gũi, chăm sóc, còn những đứa trẻ bị bỏ lại sẽ lớn lên trong không khí thiếu
tình thương, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách.
Theo ông, đa số gia đình chọn để con ở lại vì chi phí chăm sóc trẻ ở đồng bằng quá cao so với miền núi, trong khi đồng lương công nhân eo hẹp.
Ngoài ra, trước đây, trẻ không có hộ khẩu, không thể nhập học trường công, còn chi phí trường tư lại quá lớn. Từ năm 2023, quản lý về hộ khẩu đã
bị bãi bỏ, chuyển sang mã định danh cá nhân, nhưng bản chất vẫn căn cứ theo địa bàn cư trú để phân tuyến học.
“Thực tiễn đến giờ vẫn không công bằng vì còn ưu tiên cho trẻ thường trú”, ông nói.
Ông dẫn chứng khảo sát gần đây của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với 891 lao động di cư nữ hồi tháng 8/2023, 46% cho biết thu nhập không đủ
trang trải; 14,5% khó khăn trong xin học cho con tại nơi cư trú do không có hộ khẩu; và 14,6% không có thời gian chăm sóc con cái.
TS Thắng phân tích, không có người lớn quan tâm, các em rất dễ bỏ học. Theo số liệu điều tra mới nhất của CARE năm 2020, 15% người di cư phải
trở về vì không xin được học cho con. Trẻ em học nội trú cũng phải đối mặt nhiều vấn đề khác như dễ bị lạm dụng hoặc lôi kéo vào các tệ nạn…
Nguồn tin: https://vnexpress.net/nhung-dua-tre-o-lai-sau-dong-chay-di-cu-4812377.html