Mạng lưới đường chằng chịt 26 trục dọc ngang, xuyên ba nước Đông Dương đã đưa hơn hai triệu bộ đội vào Nam ra Bắc dưới bom đạn, khiến quân Mỹ “không cách nào ngăn cản nổi”.
Hội thảo Vai trò Bộ đội Trường Sơn trong các chiến dịch chống Mỹ cứu nước năm 1971-1975 do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam cùng Binh đoàn 12 tổ chức ngày 17/5 thu hút hơn 60 tham luận của các nhà nghiên cứu, tướng lĩnh quân đội từng chiến đấu giai đoạn này. Kéo dài hơn ba giờ, hội thảo làm rõ những đóng góp của bộ đội Trường Sơn với kháng chiến chống Mỹ, vai trò của đường Trường Sơn khi vừa là tuyến chi viện chiến lược vừa là nơi đấu trí, đấu lực với đối phương.
‘Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm’
Tháng 5/1959, một đoàn công tác quân sự đặc biệt (Đoàn 559) nhận nhiệm vụ vừa mở đường Trường Sơn, nối thông liên lạc, đưa bộ đội, cán bộ vào Nam ra Bắc theo yêu cầu chiến trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề xuất ý tưởng về tuyến đường chi viện, đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành kiến trúc sư, chỉ huy việc thực thi.
Đoàn công tác đặc biệt ban đầu chỉ có ban chỉ huy, đoàn vận tải, bộ phận xây dựng kho, bao gói, sửa chữa vũ khí, trang bị khoảng 500 người. Cuối năm 1959, tuyến hành lang giao liên vận tải quân sự Trường Sơn được thiết lập, trở thành cầu nối giữa hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam.
Tuyến đường ban đầu chủ yếu chuyển quân do địa hình phức tạp khó cơ giới. Vũ khí, đạn dược chủ yếu vào Nam trên những con tàu không số. Nhưng chỉ một năm sau, năm 1960, Mỹ phát hiện đã mở trận càn khiến hoạt động vận tải tạm gián đoạn. Bộ đội Trường Sơn lật cánh sang sườn Tây, mở lối đi nhờ đất bạn Lào để tránh địch nhòm ngó.
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn thời kỳ 1967-1975 là vị chỉ huy để lại dấu ấn đậm nét nhất khi cho bộ đội lập thế trận giao thông liên hoàn, thần tốc đưa các quân đoàn chủ lực từ Bắc vào Nam. Trực tiếp khảo sát thực địa, ông thấy phương châm “địch đánh, ta sửa ta đi” không hiệu quả vì sửa đường mất công sức. Tuyến độc đạo nên nếu bị bom cắt đứt, xe cộ cơ giới đều bị đình trệ. Muốn chi viện tốt thì Đoàn 559 phải hiệp đồng binh chủng bảo vệ tuyến vận tải để vừa chi viện, vừa trở thành một chiến trường đánh Mỹ.
Suốt 16 năm (1959-1975), bộ đội Trường Sơn đã cùng quân, dân các chiến trường từng bước xây dựng con đường thành một lưới giao thông liên hoàn xuyên qua 21 tỉnh trên lãnh thổ ba nước, với tổng chiều dài 20.000 km đường ôtô, 600 km đường sông, 1.400 km đường ống dẫn xăng dầu, 1.500 km đường dây thông tin liên lạc.
Từ một đường mòn ở nơi địa hình hiểm trở với núi cao, rừng rậm nhiệt đới bậc nhất Đông Nam Á, Trường Sơn đã trở thành tuyến giao thông chiến lược nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến phía Nam. Một “bát quái trận” xuyên rừng với 5 trục dọc, 21 trục ngang, tổng chiều dài 20.000 km phủ kín dãy Trường Sơn cả bên đông lẫn bên tây, xuyên qua 21 tỉnh, ba nước Đông Dương mà Mỹ “không cách nào ngăn chặn”.
“Vượt lên những gian khổ, hy sinh, các thế hệ bộ đội Trường Sơn đã tạo dựng được mạng lưới vận tải chiến lược được ví như trận đồ bát quái xuyên rừng rậm để ngoài chi viện còn là hậu phương chiến lược trực tiếp cho các chiến dịch, chiến trường đánh Mỹ”, thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Lịch sử quân sự, đánh giá.
Từ đường mòn thành chiến trường đánh Mỹ
Chiến trường từ năm 1971 ngày càng ác liệt khi Mỹ quyết tâm cắt đứt đường chi viện chiến lược Trường Sơn, vừa cho quân càn quét trên bộ vừa cho máy bay rải thảm các kho tàng, bến bãi, tiêu diệt bộ đội chủ lực. Bộ đội Trường Sơn gánh trên vai trọng trách hậu cần, vừa được tổ chức biên chế và lực lượng trở thành binh chủng hợp thành quy mô lớn.
Từ 500 cán bộ chiến sĩ đầu tiên đi “soi đường, mở lối”, gùi thồ, vận chuyển hàng hóa, công văn, tài liệu vào Nam, đã trở thành một binh đoàn tổng hợp với đủ quân binh chủng. Cuối năm 1974, bộ đội Trường Sơn có 9 sư đoàn binh chủng, 25 trung đoàn và tương đương, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ, tổng quân số hơn 100.000 người.
Các đơn vị hiệp đồng binh chủng, bố trí trận địa pháo phòng không, giăng lưới lửa trên dải Trường Sơn bảo vệ những đoàn xe bên dưới đi vào chiến trường. “Trường Sơn Đông nối Trường Sơn Tây” lúc này không đơn thuần là một ý thơ của Phạm Tiến Duật, mà mang ý nghĩa con đường vận tải chiến lược nối hậu phương miền Bắc với tiền tuyến phía Nam, là chiến trường đánh Mỹ đúng nghĩa.
Sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, nhiệm vụ của bộ đội Trường Sơn chuyển sang giai đoạn mới. Trong đó, công binh được giao nhiệm vụ cải tạo tuyến Tây Trường Sơn, xây dựng cơ bản tuyến Đông Trường Sơn cùng hệ thống đường ống xăng dầu, đáp ứng vận chuyển vật chất, cơ động bộ đội, vũ khí ra chiến trường.
Thiếu tướng Hoàng Kiền, nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh, kể thời gian đầu, hệ thống đường Trường Sơn với 4 trục dọc, gần 20 trục ngang đã được xây dựng. Song hầu hết là đường dã chiến làm gấp, xe chỉ chạy được trong mùa khô. Cầu cống cũng làm tạm, mặt đường bằng đất, mùa mưa rất lầy khó đáp ứng chiến dịch vận chuyển lớn.
Nhưng trong ba năm bộ đội Trường Sơn đã điều chỉnh lại đơn vị, cải tạo nâng cấp hệ thống đường Tây Trường Sơn; xây dựng cơ bản tuyến Đông Trường Sơn từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Chơn Thành (Bình Phước) dài hơn 1.200 km. Hệ thống cầu đường Đông – Tây Trường Sơn cũng được cấp tốc sửa chữa để vận tải đội hình lớn, chạy cung đoàn dài. Thế trận cầu đường chiến lược hoàn chỉnh, dự trữ hậu cần đủ đáp ứng chuẩn bị cho tổng tiến công mùa xuân năm 1975.
Đường Trường Sơn những năm ấy cũng trở thành nơi thử nghiệm các loại bom, mìn, chất độc hóa học rải xuống suốt ngày đêm. Những địa danh như bãi Dinh, Cổng Trời, bãi Đá Đẽo, phà Xuân Sơn, cầu Trạ Ang, ngầm Tà Lê, đèo Phu La Nhích… được gọi là trọng điểm của trọng điểm, những túi bom của chiến trường.
“Trên những trọng điểm ấy không có đêm, chỉ có ngày, không lúc nào ngớt pháo sáng, vệt trắng xóa kéo dài mười mấy cây số, nhìn như sao sa nhưng lại là một màu chết chóc”, ông Hoàng Kiền kể, cho biết Đường 9 – nơi ai cũng phải đi qua khi vào chiến trường có 5 trọng điểm bị đánh phá ác liệt. Có khu vực rộng 3 km, dài 5 km trơ gốc cây, không còn màu xanh, đất đá bị băm nát.
Trên những túi bom ấy, công binh, thanh niên xung phong bám trụ san lấp, sửa chữa đường cho xe qua. Theo tướng Kiền, công binh là lực lượng hy sinh nhiều nhất những năm xẻ dọc Trường Sơn cứu nước. Chưa kể mùa mưa kéo dài 6 tháng, kéo dài hàng tuần kéo theo những trận lũ đổ về. Quật ngã họ nhanh nhất là những trận sốt rét rừng đến vàng da, rụng tóc. “Những thanh niên tuổi đôi mươi không có ngày nào nghỉ, sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, ông nói.
16 năm tuyến đường hoạt động, hơn 22.000 bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong đã ngã xuống, trên 30.000 người khác nhiễm chất độc da cam, hàng chục nghìn người khác bị thương. Mỹ rải hơn 8 triệu tấn bom trên toàn lãnh thổ Việt Nam thì riêng Trường Sơn đã hứng chịu hơn 4 triệu tấn. Những năm ấy, bình quân 1.000 tấn hàng đưa qua được đường Trường Sơn thì 57 người bị thương, 21 người hy sinh, 25 xe ôtô và 143 tấn hàng bị phá hủy.
Nhưng vượt qua hơn 733.000 lần máy bay bắn phá với gần 4 triệu tấn bom, bộ đội Trường Sơn đã đưa hơn một triệu vật chất, vũ khí vào chiến trường, vận chuyển cơ động 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, 2 triệu lượt bộ đội vào Nam ra Bắc.
Hồng Chiêu
Nguồn tin: https://vnexpress.net/duong-truong-son-bat-quai-tran-xuyen-rung-danh-my-4747467.html