Uỷ ban Kinh tế Quốc hội vừa tổ chức hội thảo“ Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu ở Việt Nam” để hoàn thiện sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (23/10/2023).
CHUYÊN GIA KHUYẾN NGHỊ CẢI CÁCH MÔ HÌNH GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Mặc dù Luật các tổ chức tín dụng hiện hành đã quy định tỷ lệ giới hạn sở hữu cổ phần của các cá nhân, tổ chức và người có liên quan nhằm tăng sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng nhưng các chuyên gia đã chỉ ra cách thức lách luật được cổ đông sử dụng trên thực tế để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần thực tế và nắm quyền chi phối tại các định chế tài chính/tổ chức tín dụng.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đã dẫn ra ví dụ thực tế.
Chẳng hạn, cổ đông sử dụng mô hình “cá nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do cá nhân đó làm chủ” hoặc “cá nhân và công ty cổ phần chưa niêm yết với tỷ lệ sở hữu cổ phần của cá nhân đó trên 65%. Thông qua người có liên quan và mối quan hệ thành viên gia đình nhưng không bị giới hạn bởi quy định của người có liên quan tại Luật các tổ chức tín dụng.
Các công ty có xu hướng không minh bạch thông tin liên quan đến chủ sở hữu và giao dịch có liên quan đến chủ sở hữu và người có liên quan. Thiếu thông tin về các cổ đông tổ chức nắm giữ tỷ lệ sát ngưỡng 5% để tránh các quy định công bố thông tin về cổ đông lớn, thường là công ty TNHH và cổ phần chưa niêm yết/không phải là công ty đại chúng. Công bố thông tin của loại hình công ty TNHH, công ty hợp danh và công ty cổ phần chưa niêm yết thiếu, ngay cả khi cung cấp cho các cơ quan quản lý. Thiếu quy định về công bố thông tin cổ đông lớn là cá nhân.
Việc các cổ đông cá nhân tăng sở hữu thực tế thông qua mối quan hệ thành viên gia đình là “hàng cháu” đã tránh được các quy định về người có liên quan nên không phải công khai thông tin của các cổ đông “hàng cháu”. Điều này dẫn đến không đảm bảo được tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng, gây khó khăn trong hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát quyền “chi phối” thực sự của ngân hàng. Một số trường hợp như đứng tên hộ, sử dụng “công ty bình phong”… chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra.
Từ phân tích trên, TS. Vũ Nhữ Thăng cho rằng việc quy định giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ 5% xuống 3% vốn điều lệ, sở hữu của một cổ đông từ tổ chức, giảm từ 15% xuống 10%, hay nhóm cổ đông liên quan từ 20% xuống 15% như quy định của dự thảo sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo.
Theo TS. Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên cao cấp, chuyên ngành tài chính – kế toán, Đại học Bristol (Anh), việc giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cổ đông, một cổ đông và người có liên quan để tăng tính đại chúng, chưa chắc đã ngăn chặn được tình trạng sở hữu chéo, bởi cốt lõi vấn đề của ngân hàng Việt Nam nằm ở vấn đề quản trị.
Sở hữu chéo giữa các nhà phát triển bất động sản và ngân hàng tại Việt Nam đang gặp những vấn đề mà Trung Quốc đang đối diện, khi các công ty bất động sản có vốn hóa yếu vay mượn nhiều từ các ngân hàng thông qua mạng lưới phức tạp của các chi nhánh, từ đó đặt các ngân hàng này cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng vào trạng thái rủi ro cao.
Vì vậy, cải cách trong giám sát ngân hàng sẽ là một nhiệm vụ chính sách công đa diện với nhiều mục tiêu: (i) để đảm bảo ổn định tài chính (giải quyết rủi ro hệ thống); (ii) bảo vệ người tiêu dùng tài chính (giải quyết thông tin bất đối xứng) và (iii) tính toàn vẹn của thị trường tài chính (giải quyết các hành vi gian lận và tội phạm).
Theo đó, TS. Hồ Quốc Tuấn đề xuất một số mô hình giám sát hoạt động ngân hàng.
Thứ nhất, mô hình giám sát theo nghành. Theo mô hình này, một cơ quan quản lý ngành tài chính (Ngân hàng Nhà nước) chịu trách nhiệm về tính an toàn và giám sát hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Một cơ quan có thẩm quyền khác có nhiệm vụ tương tự đối với các công ty bảo hiểm. Cơ quan thứ ba chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, mô hình đỉnh đôi, hay ba là mô hình tích hợp. Theo đó, các ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát đồng thời là cơ quan chủ chốt giám sát an toàn vi mô đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán; và cũng là người giám sát hoạt động kinh doanh, có thể chịu trách nhiệm chính hoặc chia sẻ trách nhiệm với các ngân hàng, công ty bảo hiểm và chứng khoán.
KIẾN NGHỊ SỬA QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI LIÊN QUAN VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
TS. Vũ Nhữ Thăng nhận định việc “hạn chế sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng” thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Nói cách khác, khuôn khổ pháp lý cần thiết kế nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng đó, tức là làm minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu.
Do đó, để hạn chế sở hữu chéo và xử lý được nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, TS. Thăng đề xuất làm rõ đối tượng “người có liên quan” trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi với Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và Gia đình (Khoản 16 Điều 3).
Đồng thời, rà soát bổ sung các quy định về công bố thông tin. Theo đó, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia kiến nghị bổ sung các quy định về việc cổ đông, chủ sở hữu phải công bố thông tin nhằm giám sát hữu hiệu về sở hữu của tổ chức tín dụng. Quy định về công bố thông tin của tổ chức tín dụng (đặc biệt là ngân hàng thương mại) cần phải được quy định chặt chẽ hơn so với các công ty đại chúng, công ty niêm yết theo Luật chứng khoán 2019 (Luật Chứng khoán hiện hành yêu cầu công bố thông tin của cổ đông lớn, nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty đại chúng…). Nghiên cứu bổ sung quy định nghĩa vụ công bố thông tin đối với cổ đông (cả tổ chức và cá nhân) và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng trên một mức cụ thể.
Đại biểu Nguyễn Tạo, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Lâm Đồng, cũng đồng quan điểm với nhiều chuyên gia, là giữ nguyên tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 53 )như quy định của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành, bởi không có cơ sở, căn cứ để đề xuất các tỷ lệ như tại Dự thảo Luật (từ 5%, 15%, 20% giảm xuống còn 3%, 10% và 15%).
Cụ thể, chưa có đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo. Chưa có đánh giá tác động của các quy định này đối với các cổ đông hiện hữu, nhất là cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi luật có hiệu lực; tác động đến thị trường chứng khoán…
Đại biểu Nguyễn Tạo cho biết, theo nghiên cứu thì trên thế giới không có luật ngân hàng nào đề cập chống sở hữu chéo như ở Việt Nam, các quy định chống sở hữu chéo theo các thông lệ quốc tế cũng không thấy đề cập về tỷ lệ như trên. Luật ở các nước khống chế tỷ lệ sở hữu tối đa vì nguyên tắc chống độc quyền, chứ không tìm cách giảm thấp tỷ lệ này xuống để xử lý sở hữu chéo. Ngoài ra, quy định này cũng chưa thống nhất với khái niệm cổ đông lớn quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán…
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đoàn Thái Sơn đã phân tích làm rõ hơn các mong muốn từ phía cơ quan soạn thảo khi thiết kế xây dựng Luật các tổ chức tín dụng. Nhắc lại mục tiêu hội thảo, trong đó các ý kiến đề cập đến nhiều nhất đến câu chuyện ngăn ngừa và chống thao túng trong hoạt động ngân hàng, Phó thống đốc cho biết đây là mục tiêu xuyên suốt và rất quan trọng với Việt Nam. Tuy nhiên, việc chúng ta mong muốn xử lý được hoàn toàn và chấm dứt tình trạng này là rất khó nên Ban soạn thảo đặt mục tiêu là hạn chế về mức tối đa.
Phó Thống đốc khẳng định không có mô hình quốc gia nào mà phù hợp hoàn toàn với Việt Nam nên khó có thể sao chép được một mô hình nào đó vào vào điều kiện của Việt Nam. Vì vậy, cách tiếp cận của Ngân hàng Nhà nước là nâng cao năng lực của cơ quan thanh tra giám sát để ngăn ngừa kiểm soát rủi ro của hệ thống tổ chức tín dụng.