Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa trải qua cơn bĩ cực, nhất là với các tổ chức phát hành là doanh nghiệp bất động sản, khi mà quý 2 và quý 3 năm nay là đỉnh điểm đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp của ngành này.
Trong khi đó, môi trường tín dụng suy yếu, kinh doanh khó khăn khiến nhiều doanh nghiệp, chủ yếu thuộc lĩnh vực bất động sản chậm thanh toán nghĩa vụ nợ cho các trái chủ. Điều này khiến cho tâm lý thị trường hoang mang vì lo ngại tình trạng “vỡ nợ” xảy ra.
CÁC VỤ CHẬM TRẢ CHỈ TƯƠNG ĐƯƠNG NỢ NHÓM 3 CỦA NGÂN HÀNG
Trao đổi với VnEconomy, ông Nguyễn Tùng Anh, Trưởng phòng Nghiên cứu Tín dụng của FiinRatings cho biết, sự kiện chậm trả lãi và/hoặc gốc nợ vay, thường được gọi là “vỡ nợ”, thực tế là tình trạng bình thường ở bất kỳ thị trường nợ quốc tế nào.
“Các trường hợp được gọi là “vỡ nợ” nhưng thực sự cũng tương tự như nợ xấu nhóm 3 của các ngân hàng thương mại. Bởi vậy, thị trường cần một hệ thống định nghĩa lại về vấn đề này để nhà đầu tư nắm rõ thực tế thực trạng chất lượng tín dụng trái phiếu doanh nghiệp và có các biện pháp rủi ro cần thiết nhưng thị trường vẫn vận hành ổn định và phát triển bình thường”
Tại các tổ chức tín dụng, nợ nhóm 3 là những khoản nợ: (i) quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; (ii) nợ gia hạn nợ lần đầu; (iii) nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; (iv) nợ vi phạm các quy định khác được quy định tại thông tư 02/2013/TT-NHNN.
Nếu như dư nợ tín dụng được phân loại rõ ràng thành 5 nhóm, thì đến nay, Việt Nam chưa có các quy định hoặc định nghĩa về phân loại xếp hạng tín nhiệm khi một doanh nghiệp rơi vào tình huống chậm trả lãi và/hoặc gốc của một hoặc một nhóm công cụ nợ hay còn gọi là “mất khả năng thanh toán” trên thị trường trái phiếu.
Khoảng trống này có thể tạo ra tâm lý bất an trên thị trường khi xảy ra tình huống doanh nghiệp chậm thanh toán gốc/lãi trái phiếu khi đến hạn.
Thời gian qua, thị trường bị tác động chung bởi các yếu tố vĩ mô như chính sách kiểm soát tín dụng, môi trường lãi suất cao, kênh huy động trái phiếu suy giảm mạnh, pháp lý dự án bị đình trệ hoặc thay đổi chính sách.
Ngoài ra, các tổ chức phát hành rơi vào tình trạng vi phạm nghĩa vụ nợ đều có những đặc điểm chính về chất lượng tín dụng yếu trong một thời gian dài, bao gồm: (i) mức đòn bảy nợ rất cao; (ii) dòng tiền trả nợ yếu do vay nợ tăng nhưng vốn chủ yếu tồn đọng ở các khoản phải thu và đầu tư tài chính dài hạn thay vì tạo ra tài sản cố định hữu hình hoặc hàng tông kho hoàn thành dẫn đến rủi ro thanh khoản ở mức cao và rất cao và (iii) mất cân đối về kỳ hạn. Kỳ hạn nợ ngắn trong khi dòng tiền kinh doanh âm nhiều kỳ liên tiếp trước khi xảy ra sự kiện vi phạm nợ.
“Về thực trạng chậm trả trái phiếu tại Việt Nam, tôi cho rằng với môi trường tín dụng suy yếu và kinh doanh khó khăn, mặc dù các vụ chậm trả sẽ tiếp tục diễn ra, thị trường hiện vẫn đang tương đối ổn định về mặt tâm lý và được hỗ trợ bởi các chủ trương, chính sách của cơ quan quản lý. Tôi kỳ vọng các động thái này vẫn tiếp tục được duy trì và thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ dần được hồi phục và cải thiện tích cực, đặc biệt là trong năm 2024″, ông Nguyễn Tùng Anh nhận định.
Về xu hướng tình hình trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2023 và 2024, chuyên gia của FiinRatings cho rằng vấn đề cần quan tâm và rủi ro chính là 396,3 nghìn tỷ VND đến từ 302 doanh nghiệp bất động sản trong tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp 788,9 nghìn tỷ đang lưu hành với 757 tổ chức phát hành là doanh nghiệp phi ngân hàng.
Tuy nhiên, động thái hỗ trợ vừa qua như giảm lãi suất cho vay, Nghị quyết 33/2023/NQ-CP và Nghị định 08/2023/NĐ-CP ra đời được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết áp lực nghĩa vụ nợ qua hoạt động tái cấu trúc nợ, phát hành trái phiếu mới để tái tài trợ nợ cũ hoặc cấp tín dụng mới cho các dự án sạch về pháp lý được triển khai một cách hiệu quả.
NHỮNG ĐIỀU CẦN THEO DÕI SAU KHI DOANH NGHIỆP “KHẤT NỢ” TRÁI PHIẾU
Chia sẻ về những điều cần theo dõi sau sự kiện “mất khả năng thanh toán” của tổ chức phát hành, ông Nguyễn Tùng Anh cho biết, trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ tài chính trong khoảng thời gian khắc phục sau khi mất khả năng thanh toán là 90 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện, FiinRatings có thể thực hiện nâng điểm xếp hạng tín nhiệm.
“Thông thường, điểm xếp hạng tín nhiệm sẽ được nâng lên mức có tính chất đầu cơ (BB+ trở xuống) sau khi khả năng thanh toán được khôi phục. Để nâng điểm xếp hạng tín nhiệm lên mức đầu tư (BBB- trở lên), thời gian khắc phục thông thường để theo dõi cần kéo dài ít nhất là 365 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, điểm xếp hạng tín nhiệm chỉ có thể được điều chỉnh nếu FiinRatings đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ chức Phát hành được cải thiện một cách bền vững”, ông Nguyễn Tùng Anh cho biết.
Theo ông Tùng Anh, cơ sở để nâng điểm xếp hạng tín nhiệm đối với các tổ chức phát hành từng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán bao gồm (nhưng không giới hạn) bởi 3 yếu tố sau.
Thứ nhất, tổ chức phát hành cải thiện đáng kể, mang tính bền vững về năng lực kinh doanh.
Thứ hai, cải thiện vị thế thanh khoản nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn lưu động và thanh toán các nghĩa vụ nợ.
Thứ ba, cải thiện hồ sơ rủi ro tài chính, nâng cao các tỷ lệ bao phủ nợ, tỷ lệ bao phủ lãi vay, chất lượng tài sản để đáp ứng các nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong trung hạn.
Tuy nhiên, tùy theo từng trường hợp, việc điều chỉnh điểm xếp hạng tín nhiệm đối với các tổ chức phát hành từng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán có thể sớm hơn so với khoảng thời gian khắc phục quy định ở trên, nếu các điều kiện gây ra sự kiện mất khả năng thanh toán trước đó sẽ không xuất hiện trong tương lai gần sắp tới.
Theo chuyên gia, một số yếu tố có thể tác động đến việc điều chỉnh này bao gồm (nhưng không giới hạn) bởi: (i) thay đổi trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của tổ chức phát hành; (ii) tổ chức phát hành được mua lại, sáp nhập bởi một tổ chức khác có năng lực tín dụng tốt hơn; (iii) tổ chức phát hành tìm kiếm và đảm bảo được nguồn vốn quy mô lớn, ổn định trong dài hạn; (iv) các lợi thế mà tổ chức phát hành có thể được hưởng do sự thay đổi về chính sách hoặc pháp luật; (v) các yếu tố bất khả kháng ít xuất hiện là nguyên nhân gây ra sự kiện gây mất khả năng thanh toán trước đó; (vi) tái cấu trúc các khoản vay mà không làm ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh của tổ chức phát hành.