Đánh thức “nàng công chúa ngủ quên”: Gốm Chu Đậu
Một ngày năm 1980, ông Ngô Duy Đông – bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (hiện nay thuộc Hải Phòng) bất ngờ nhận được một bức thư từ ông Makoto Anabuki – lúc đó là cán bộ ngoại giao của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam.
Ông Makoto kể trong một chuyến du lịch thăm bảo tàng Topkapi Saray Museum (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) cùng năm, ông tình cờ bắt gặp một chiếc bình men lam ghi dòng chữ Hán “Thái Hòa bát niên Nam Sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút”, dịch nghĩa: “Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, người tạo tác là Bùi Thị Hý”.
Thông tin này đã làm rung động giới khảo cổ Việt Nam và lá thư của ông Anabuki gửi tới ông Đông chính là lời mở đầu cho hành trình tìm lại một dòng gốm tưởng như đã mất – gốm Chu Đậu.
Sự ngỡ ngàng của giới chuyên môn Việt Nam được tờ Tuổi trẻ miêu tả như sau: “Câu chuyện thật mà cứ như đùa khi một dòng gốm có thành tựu rực rỡ của Việt Nam bỗng biến mất tăm không một dấu vết.”
Trước khi có được bức thư ấy, tại làng Chu Đậu, người dân trong lúc đào móng cũng đã phát hiện rất nhiều hiện vật đồ gốm nhưng chẳng ai biết đây là gốm gì và chẳng ai quan tâm tới những vật phẩm không sử dụng được này.
Bát trà chân cao Chu Đậu, thế kỷ XVI, men lam đỏ và lục, nguyên thuộc sở hữu của tướng quân Tokugawa Ieyasu (1542 – 1616). Ảnh: Tạp chí Nông thôn Phát triển
Mọi thứ bị bỏ qua, bởi làng Chu Đậu chỉ có duy nhất nghề làm chiếu cói được lưu truyền, cho đến những năm 1980 vẫn còn được nhiều người kế thừa như một kế mưu sinh của người dân trong làng…
Hành trình khảo cổ tại Nam Sách bắt đầu không phải bằng bản đồ rõ ràng mà bằng may mắn. Trong một lần khảo sát nghề chiếu cói ở làng Chu Đậu, nhóm điền dã tỉnh Hải Hưng khi đó phát hiện một vật liệu bằng đất nung rất lạ, rồi họ tìm được tước gốm còn dính bao nung trong miệng – dấu hiệu của lò gốm chuyên nghiệp.
Đến tháng 4/1986, hai hố khai quật đầu tiên được đào tại Chu Đậu – chỉ rộng 35 m² mỗi hố – và đã thu hàng ngàn hiện vật: con kê, nón cụt, vòng đeo tay bằng đất nung, những chồng bát đĩa bị méo xẹo do nung quá lửa, mảnh bao nung và mảnh gốm đủ loại.
Kết quả này xác lập Chu Đậu từng là một trung tâm sản xuất gốm sứ xuất khẩu của Việt Nam – với các dòng men ngọc, men trắng, gốm hoa lam, từng chiếm lĩnh cả thị trường trong nước và quốc tế.
Hành trình khảo cổ gốm Chu Đậu không chỉ ở đất liền bởi khoảng hơn chục năm sau, người ta tiếp tục tìm thấy dấu vết gốm Chu Đậu trong xác con tàu đắm ngoài khơi Cù Lao Chàm.
Kết quả thu được sau khi vượt qua dông gió biển khơi là hơn 240.000 hiện vật và 5 xe tải mảnh vỡ đồ gốm Chu Đậu. Đó là chưa kể đến một lượng hiện vật khổng lồ mà ngư dân trục vớt trước đó, cùng hơn 15.000 hiện vật do một công ty “khai quật vét” sau này.
Ngoài một số ít gốm sứ Trung Quốc, Thái Lan và Champa được xác định là đồ dùng của đoàn thủy thủ, toàn bộ mấy trăm ngàn hiện vật được xác định là gốm mậu dịch được sản xuất ở miền Bắc gồm Hải Dương và Thăng Long mà tên gọi chung là Chu Đậu.
Điều này cho thấy, gốm Chu Đậu không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn tỏa sáng khắp năm châu.
Người Nhật học kỹ thuật Việt
Theo báo Đà Nẵng, Giáo sư Hasebe Gakuji, nhà nghiên cứu gốm sứ nổi tiếng của Nhật Bản, nhận định: “Vào thế kỷ XIV, kỹ thuật sản xuất đồ gốm ở Nhật Bản vẫn còn kém xa so với Việt Nam.”
Chính vì vậy, người Nhật khi ấy không chỉ nhập khẩu gốm Việt để phục vụ nhu cầu sử dụng, mà còn với mục đích tìm hiểu và học hỏi kỹ thuật chế tác tinh xảo của người Việt.
Gốm Chu Đậu lừng danh trong và ngoài nước. Ảnh: Tiền Phong
Giáo sư Hasebe cũng cung cấp thêm những tư liệu quý hiếm giúp xác định hành trình đưa đồ sứ Việt Nam vào Nhật Bản. Ông cho biết: “Từ thời kỳ Châu Ấn thuyền buôn bán nhộn nhịp, nhiều thương nhân Nhật đã sang Hội An và sinh sống tại đây một thời gian, trong đó có gia đình thương nhân Osawa Shirozaemon, hiện vẫn còn lưu giữ một số đồ sứ Việt Nam”.
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn (nhà nghiên cứu lịch sử, chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa) cho biết, theo sách Trà hội ký, từ cuối thế kỷ XIV, gốm sứ Việt Nam đã được người Nhật sử dụng trong các nghi thức trà đạo. Họ gọi những món đồ ấy là Nanban Shimamono (đồ gốm phương Nam) và An Nam (đồ sành sứ Việt Nam).
Tại Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa ở Nagoya, Nhật Bản, hiện còn lưu giữ những bộ bát trà chân cao men tam thái xuất xứ từ Chu Đậu, nổi tiếng bậc nhất. Đặc biệt, có chiếc bát trà thuộc sở hữu của tướng quân Tokugawa Ieyasu từ năm 1616, được trang trí bằng men đỏ và lục, thân ngoài vẽ hoa sen, hoa cúc xen cành bạch quả, đáy phủ men nâu. Ngoài ra, gia tộc Owari-Tokugawa cũng gìn giữ một chiếc bát trà Chu Đậu quý hiếm, từng được dùng làm mẫu chế tác trong lò gốm của họ.
Sự hiện diện của những bát trà Chu Đậu chân cao không chỉ thể hiện tầm ảnh hưởng sâu sắc của gốm Việt tại Nhật, mà còn định hình phong cách thẩm mỹ và kỹ thuật trang trí cho dòng gốm Nhật thế kỷ XVII.
Ngành gốm Việt Nam phát triển
Theo thư tịch cổ, gốm Chu Đậu phát triển rực rỡ trong khoảng từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Đây là dòng gốm cao cấp, chuyên chế tác đồ ngự dụng cho hoàng gia và phục vụ xuất khẩu.
Gốm Chu Đậu được thể hiện dưới nhiều hình thức nghệ thuật như vẽ, khắc, đắp nổi. Tất cả đều được làm hoàn toàn thủ công, mang lại những họa tiết mềm mại, tinh tế và đầy sức sống.
Theo các nhà nghiên cứu, hiện nay hiện vật gốm Chu Đậu cổ đang được trưng bày tại hơn 40 bảo tàng trên khắp thế giới, có những sản phẩm từng được đấu giá tới hàng triệu USD.
Trong cuộc trò chuyện với Đài Truyền hình Việt Nam năm 2018, nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành cho biết gốm Chu Đậu đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao ngay từ thời đương đại.
Ông nói: “Vào thế kỷ XV, thế giới có kỹ thuật gốm gì thì Chu Đậu cũng có. Ví dụ như kỹ thuật mạ vàng, Chu Đậu cũng làm được; hay về màu sắc, Chu Đậu có tới năm màu. Nghĩa là mọi tiêu chuẩn của thời đại, Chu Đậu đều đạt được. Đặc biệt, dòng gốm này còn sở hữu những kỹ thuật độc đáo mà chỉ Chu Đậu mới có, như nét vẽ hoa phóng khoáng, mềm mại, như đang bay trước gió. Đây là một trong những dòng gốm đẹp nhất thế giới”.
Sau nửa thế kỷ thất truyền, gốm Chu Đậu ngày nay đã được phục hưng, trở thành niềm tự hào của nghề gốm Việt Nam, sánh vai cùng nhiều dòng gốm nổi tiếng khác trong nước.
Theo Bộ Công Thương Việt Nam, trong 10 năm qua, ngành gốm sứ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, khẳng định vị thế của một trong những ngành thủ công truyền thống giá trị nhất của đất nước.
Riêng trong lĩnh vực gốm sứ mỹ nghệ, quy mô sản xuất hiện đã phủ khắp cả nước với hơn 5.400 làng nghề đang hoạt động. Trong đó, gần 2.000 làng nghề mang tính truyền thống, với 115 nghề đã được Nhà nước công nhận chính thức.
Không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, gốm sứ Việt Nam còn mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Liên minh châu Âu (EU), Thái Lan…
Trong giai đoạn 2019 – 2023, xuất khẩu sản phẩm gốm sứ của Việt Nam tăng trưởng bình quân 3,5% mỗi năm, đạt đỉnh vào năm 2022 với kim ngạch 711 triệu USD, trước khi giảm 13% trong năm 2023 do biến động chung của kinh tế thế giới.
Đáng chú ý, xuất khẩu sang nhiều thị trường chủ lực vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định: Mỹ tăng trung bình 7,4%/năm; Nhật Bản tăng 6,7%/năm; Đài Loan (Trung Quốc) tăng 13,6%/năm; Thái Lan tăng 3,6%/năm; và Philippines tăng 10,5%/năm.
Nguồn tin: https://cafef.vn/nhat-ban-tim-hoc-ky-thuat-viet-tuong-quan-tokugawa-phai-sao-chep-mau-bi-mat-gay-sung-sot-sau-500-nam-188251029083415873.chn

