Để nâng cao khả năng thích ứng của đô thị trước nguy cơ ngập úng, các chuyên gia lưu ý cần chuyển đổi tư duy quy hoạch từ “chống nước” sang “sống chung với nước”, thông qua cách tiếp cận đa ngành, sử dụng dữ liệu dự báo tương lai thay vì lịch sử, phân vùng quản lý rủi ro theo đặc thù không gian…
Tại hội thảo “Ngập úng đô thị –
Thách thức và biện pháp giảm thiểu” do Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng
hội Xây dựng Việt Nam tổ chức, ông Nguyễn Quyết Chiến, Tổng thư ký Liên hiệp Hội
Việt Nam, nhận định quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra nhanh
chóng và chịu tác động ngày
càng rõ nét của biến đổi khí hậu. Hiện nay, cả nước có 900 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đã vượt 44%
và dự kiến vượt trên 50% vào năm 2030. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt
được thì nhiều thách thức đang nổi lên. Trong đó, ngập úng đô thị trở thành vấn
đề phổ biến và không còn giới hạn ở các đô thị lớn.
Thống kê đến năm 2024 cho thấy khoảng
397 điểm ngập với diện tích ảnh hưởng hơn 900ha thường xuyên xảy ra tại Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ cùng nhiều đô thị khác, gây tác động nghiêm
trọng đến giao thông, đời sống dân sinh và phát triển kinh tế – xã hội.
NĂM 2024 CÓ 397 ĐIỂM NGẬP
Đáng chú ý, “tình trạng ngập úng còn
lan rộng ra cả những đô thị trung bình, miền núi lẫn cao nguyên như: Thái
Nguyên, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. Đồng thời, trầm trọng hơn tại một số đô thị ven
biển và hạ lưu sông do mưa lớn kết hợp triều cường. Ngập úng làm thiệt hại kinh
tế ước tính tương đương 1–1,5% GDP đô thị mỗi năm, cho thấy đây là thách thức
mang tính hệ thống đối với phát triển đô thị bền vững”, đại diện Liên hiệp Hội
Việt Nam thông tin.
Đồng quan điểm, Chủ tịch Tổng hội
Xây dựng Việt Nam Đặng Việt Dũng đánh giá tình trạng ngập úng đô thị đang trở
thành thách thức lớn cho quá trình phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam. Nhiều
đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn và trung tâm vùng thường xuyên đối mặt với ngập
lụt do: mưa lớn, triều cường, nước biển dâng và quá tải hệ thống thoát nước.
Thực trạng này gây thiệt hại đáng kể đến kinh tế, làm gián đoạn hoạt động dân
sinh, ảnh hưởng đến đời sống người dân, môi trường cùng an toàn đô thị.
Thống kê đến năm 2024 cho thấy khoảng 397 điểm ngập với diện tích ảnh hưởng hơn 900ha thường xuyên xảy ra tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ cùng nhiều đô thị khác.
Theo ông Dũng, ngập úng đô thị
ngày càng diễn biến phức tạp, kéo dài và khó dự báo bởi nhiều nguyên nhân đan
xen. Bên cạnh mặt trái của quá trình đô thị hóa là bê tông hóa bề mặt, kiểm
soát cốt nền chưa hợp lý, công trình xây dựng cản trở dòng chảy, thì còn tồn tại
những hạn chế trong hạ tầng kỹ thuật, công tác quản lý đô thị và tư duy quy hoạch.
Đặc biệt, nhận thức về vai trò của nước, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực
thoát nước – cấp nước, công tác quản lý vận hành các hồ chứa, cũng như năng lực
dự báo, mô hình hóa và khả năng thích ứng của đô thị trước rủi ro khí hậu vẫn nhiều
bất cập.
Xoay quanh thực trạng này, ThS.
Lê Tùng Lâm, Trưởng Ban Đô thị Thành phố Đà Nẵng, cho rằng đang có một nghịch
lý là dù đầu tư lớn cho thoát nước nhưng tình trạng ngập úng đô thị Việt Nam tiếp
tục diễn biến nghiêm trọng. Thể chế hiện hành vẫn thiếu các chỉ tiêu bắt buộc về trữ nước, tỷ lệ thấm, tái sử dụng và chưa thừa nhận khái niệm “ngập có kiểm soát”. Điều này cản trở các giải pháp thích ứng.
“Cách tiếp
cận truyền thống chủ yếu coi nước mưa là rủi ro phải nhanh chóng tiêu thoát đã
khiến quy hoạch đô thị tồn tại một khoảng trống lớn, đó là thiếu vắng Quy hoạch
sử dụng nước mưa một cách chính thức và đồng bộ. Thực tế, “Quy hoạch thoát nước
chỉ tập trung vào hệ thống công trình để dẫn và tiêu nước, trong khi Quy hoạch
sử dụng nước mưa cần quản lý toàn bộ chu trình nước mưa, từ thu gom – trữ – thấm – tái sử dụng – xả chậm, như một nguồn
tài nguyên phân tán trong không gian đô thị”, ông Lâm phân tích.
TÍCH HỢP QUY HOẠCH ĐÔ THỊ VỚI HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC
Từ nghiên cứu thực tế tại một số
quốc gia, ông Trần Hoài Anh, Phó Cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng, Bộ Xây
dựng, đưa ra giải pháp dựa trên kinh nghiệm quốc tế.
Trong đó, Hà Lan đã tập
trung phát triển mô hình quản lý tổng hợp nước với tư duy “Sống chung với nước”.
Họ thành lập Ủy ban Nước quốc gia chuyên trách, độc lập với ngân sách riêng và
hệ thống vận hành tự động dựa trên dữ liệu thời gian thực về mưa, triều, lưu lượng
sông; Singapore thực hiện chiến lược “Active, Beautiful, Clean Waters” và xây dựng “thành
phố bọt biển”. Còn Nhật Bản thì đầu tư vào những công trình ngầm quy mô lớn; Hàn Quốc đẩy mạnh
việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, xây dựng nền tảng quản lý ngập úng quốc gia
tích hợp dữ liệu và cho phép người dân báo cáo tình trạng ngập qua ứng dụng di
động.
“Bài học chung là cần quản lý thống
nhất, đầu tư dài hạn, tích hợp quy hoạch đô thị với hệ thống thoát nước, ứng dụng
công nghệ số và phát huy vai trò cộng đồng”, Phó Cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng
xây dựng nhấn mạnh.
Liên hệ với bối cảnh trong nước, ông Trần Quốc Thái, Đại học Xây dựng Hà Nội, nhận định giữa bối cảnh các đô thị Việt Nam
đang chịu áp lực lớn từ đô thị hóa và biến đổi khí hậu, những kinh nghiệm này cần
thiết phải được soi chiếu vào thực tiễn cụ thể của từng địa phương, trong đó Hà
Nội là trường hợp điển hình.
Ông Thái cho rằng tại Hà Nội, quá
trình đô thị hóa nhanh làm biến đổi căn bản cấu trúc “thành phố sông – hồ” tự
nhiên. Đó là bề mặt thấm bị thay thế bởi bê tông hóa diện rộng, diện tích mặt
nước suy giảm nghiêm trọng, và sự chênh lệch cốt nền giữa các khu đô thị mới và
khu vực cũ tạo ra những “con đê nhân tạo” chặn dòng thoát nước.
Từ đó, ông Thái kiến
nghị cần chuyển đổi tư duy quy hoạch từ “chống nước” sang “sống chung với nước”.
Cụ thể là áp dụng cách tiếp cận đa ngành, sử dụng dữ liệu dự báo tương lai thay
vì lịch sử, phân vùng quản lý rủi ro theo đặc thù không gian, và quan trọng nhất
là dành lại không gian đô thị cho nước (khôi phục mặt nước, hành lang thấm) để
tăng khả năng thích ứng.
-Thanh Xuân
Nguồn tin: https://vneconomy.vn/can-chuyen-doi-tu-duy-quy-hoach-tu-chong-nuoc-sang-song-chung-voi-nuoc.htm

