Bộ Tài chính đang thực hiện rà soát các mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong nước. Theo đó, cơ quan này đang sửa đổi Nghị định số 26/2023/NĐ-CP (Nghị định 26) về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Trong thời gian này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an và một số hiệp hội kiến nghị điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của mặt hàng khô dầu đậu tương từ 2% xuống 0%.
PHẦN LỚN PHẢI NHẬP KHẨU, RIÊNG NĂM 2022 CHI 2,7 TỶ USD
Theo ghi nhận của Hiệp hội Thức ăn Chăn nuôi Việt Nam (VFA), từ cuối tháng 12/2021, thuế nhập khẩu lúa mỳ từ 3% đã giảm xuống còn 0%; ngô giảm từ 5% xuống còn 2%. Trong khi đó, khô đậu tương là mặt hàng có giá thành cao và là nguyên liệu chính trong công thức sản xuất thức ăn chăn nuôi nhưng vẫn giữ mức thuế nhập khẩu 2%, gây áp lực lên chi phí sản xuất thức ăn chăn nuôi, khiến nhiều hộ chăn nuôi nhỏ tạm ngừng tái đàn.
Thống kê cho thấy tổng nhu cầu thức ăn như: ngô, khô đậu tương, cám, bột cá… cho toàn ngành chăn nuôi Việt Nam khoảng 33 triệu tấn/năm.
Hiện nay, Việt Nam có nhà máy sản xuất được khô dầu đậu tương nhưng sản lượng chỉ đạt 13 triệu tấn/năm, tương đương với 35% nhu cầu, phần còn lại phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài.
Trong 7 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng khô dầu đậu tương chịu thuế suất MFN đạt khoảng 1,2 tỷ USD.
Trong đó, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường Argentina, chiếm 58% tổng trị giá nhập khẩu; Brazil chiếm 29% tổng trị giá nhập khẩu; Ấn Độ chiếm 12% tổng trị giá nhập khẩu.
Giá trung bình trong 7 tháng đầu năm 2023 đạt 645 USD/tấn, không thay đổi nhiều so với cùng kỳ năm 2022 nhưng ở mức cao so với năm 2021. Trong thời gian tới, giá mặt hàng thức ăn chăn nuôi tiếp tục có diễn biến khó lường nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao.
Trước đó, năm 2022, Việt Nam nhập khẩu khoảng 5 triệu tấn khô dầu đậu tương, trị giá kim ngạch nhập khẩu chịu thuế suất MFN đạt khoảng 2,7 tỷ USD.
HAI PHƯƠNG ÁN GIẢM THUẾ NHẬP KHẨU
Hiện mặt hàng khô dầu đậu tương được phân loại vào mã HS 2304.00.90 với mức thuế suất MFN đang áp dụng là 2%, trong khi cam kết trần WTO là 5%; thuế suất thuế nhập khẩu theo các FTA đều là 0%.
Tại dự thảo sửa đổi Nghị định 26, Bộ Tài chính cho rằng, cơ bản mức thuế suất MFN các mặt hàng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi đều đã ở mức rất thấp để bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với khả năng đáp ứng thị trường.
Bên cạnh đó, thời gian qua, để hỗ trợ ngành sản xuất, chăn nuôi trong nước, trong bồi cảnh giá cả mặt hàng thức ăn chăn nuôi tăng cao, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2021/NĐ-CP ngày 15/11/2021, trong đó, giảm thuế suất MFN mặt hàng lúa mỳ xuống 0%, mặt hàng ngô từ 5% xuống 2% để góp phần ổn định thị trường thức ăn chăn nuôi trong nước.
“Hơn nữa, việc điều chỉnh giảm mức thuế suất MFN có thể dẫn đến giảm nhu cầu, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và tăng sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, qua đó tác động trực tiếp tới hoạt động chăn nuôi của doanh nghiệp và đời sống của người dân”, Bộ Tài chính phân tích.
Bộ Tài chính cho rằng đối với mặt hàng khô đậu tương, trong nước sản xuất đáp ứng 35% nhu cầu nên mức thuế suất MFN 2% (so với mức cam kết trần WTO 5%) như hiện hành là phù hợp, đảm bảo nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất, khuyến khích ngành chăn nuôi chủ động nguồn nguyên liệu, cũng như hài hòa lợi ích giữa người chăn nuôi và doanh nghiệp.
Trước đây, Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam và Công ty Dabaco đã có công văn kiến nghị giảm thuế nhập khẩu khô đậu tương từ 2% xuống 0% nhưng sau đó có văn bản xin rút lại kiến nghị và đề nghị giữ nguyên hiện hành.
Do đó, với thuế suất đối với mặt hàng khô dầu đậu tương, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án.
Phương án 1, giữ nguyên mức thuế suất MFN đối với mặt hàng khô dầu đậu tương như hiện hành.
Bộ Tài chính đánh giá, thực hiện theo phương án 1 có ưu điểm góp phần ổn định chính sách, không xáo trộn hoạt động sản xuất của doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi và doanh nghiệp chăn nuôi trong nước. Mức thuế suất MFN 2% so mới mức trần WTO 5% là hợp lý để khuyến khích doanh nghiệp trong nước tiếp tục sản xuất.
Nhược điểm của phương án này là chưa đáp ứng được kiến nghị của một số bộ, hiệp hội và doanh nghiệp trong bối cảnh giá nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng cao.
Phương án 2, điều chỉnh mức thuế suất MFN đối với mặt hàng khô dầu đậu tương từ 2% xuống 1%.
Còn nếu thực hiện theo phương án 2 sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất khô dầu đậu tương trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần giảm chi phí, chủ động nguồn cung.
Việc giảm thuế suất MFN xuống 1% thay vì 0% vẫn tạo dư địa đàm phán cho các FTA mà Việt Nam sẽ ký kết trong tương lai, đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc về ban hành biểu thuế, thuế suất quy định tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Để có cơ sở báo cáo Chính phủ, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cung cấp thông tín về tình hình sản xuất, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi nói chung và khô dầu đậu tương nói riêng.
Thực hiện phương án 2, giảm thuế suất MFN xuống 1% thay vì 0% dự kiến sẽ làm giảm số thu ngân sách nhà nước khoảng 520 tỷ đồng/năm (bao gồm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng), thấp hơn so với mức giảm số thu ngân sách nhà nước 1.040 tỷ đồng/năm (bao gồm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng) trong trường hợp giảm mức thuế suất MFN xuống 0% như kiến nghị.